Dạy học là một quá trình toàn vẹn có sự thống nhất giữa hai mặt của các chức năng hoạt động dạy và hoạt động học. Đó là quá trình vận động và phát triển của các thành tố tạo nên hoạt động dạy học. Hiệu quả của hoạt động dạy học phụ thuộc vào mối quan hệ tương tác, sự hỗ trợ của hoạt động dạy và hoạt động học.
Có thể hiểu: Hoạt động dạy học là hoạt động nhận thức của học sinh dưới sự tổ chức, điều khiển của giáo viên nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Mục tiêu dạy học theo nghĩa rộng là nhân cách của người học theo yêu cầu của xã hội. Theo nghĩa hẹp là giúp học sinh hiểu và có thể vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Tùy từng cấp học,bậc học mà mục tiêu dạy học được xác định phù hợp.
Chủ thể của hoạt động dạy học là người được đào tạo chuyên biệt để thực hiện nhiệm vụ tổ chức, điều khiển hoạt động học tập của học sinh.
Học sinh là chủ thể của quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành hệ thống kỹ năng, kỹ xảo, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
1.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
* Công nghệ thông tin
Thuật ngữ CNTT (information technology - IT) xuất hiện khoảng những năm 70 của thế kỷ XX. Thuật ngữ này thực chất gắn liền với sự phát triển của máy vi tính (computer), thiết bị manh nha ra đời từ thời chiến tranh thế giới thứ II. Máy vi tính là thiết bị điện tử cho phép lập chương trình, tính toán hay vận hành logic với tốc độ cao hoặc thu thập, lưu giữ, liên kết, xử lý thông tin. Từ những năm 1950 đến nay đã có 4 thế hệ máy vi tính ra đời. Mỗi thế hệ đều phản ánh sự thay đổi về phần cứng, với việc giảm kích thước nhưng tăng khả năng hoạt động của máy vi tính. Một số mốc lịch sử liên quan đến máy vi tính.
Trong Luật CNTT [11], tại điều 4 cũng đã định nghĩa: 1. Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số; 2. Thông tin số là thông tin được tạo lập bằng phương pháp dùng tín hiệu số.
Qua các định nghĩa trong và ngoài nước về CNTT, chúng tôi rút ra một số nhận xét sau về nội hàm của khái niệm CNTT:
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường Cao đẳng Sư phạm Luangprabang, thành phố Luangprabang, tỉnh Luangprabang, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - 1
- Quản lí ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường Cao đẳng Sư phạm Luangprabang, thành phố Luangprabang, tỉnh Luangprabang, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - 2
- Quản lí ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường Cao đẳng Sư phạm Luangprabang, thành phố Luangprabang, tỉnh Luangprabang, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - 3
- Tổ Chức Triển Khai Hoạt Động Ứng Dụng Cntt Trong Dạy Học Ở Trường Cđsp
- Khái Quát Về Trường Cao Đẳng Sư Phạm Luangprabang
- Thực Trạng Nội Dung Ứng Dụng Cntt Trong Dạy Học Ở Trường Cđsp Luangprabang
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
- Về gốc của khái niệm, người ta ra đi từ khái niệm “công nghệ”, một khái niệm có nhiều nghĩa. Nên tùy theo ngữ cảnh, công nghệ có thể được hiểu là công cụ,
máy móc hay là phương pháp, quy trình giải quyết vấn đề. Ở đây chúng tôi hiểu “công nghệ” theo nghĩa là công cụ, phương tiện kỹ thuật.
- Về phương tiện chủ yếu: gồm máy vi tính, phần mềm máy vi tính.
- Về đối tượng xử lý: là thông tin ở dạng tín hiệu số. Từ những phân tích trên, để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, trong luận án của mình chúng tôi thống nhất hiểu như sau: CNTT là tập hợp công cụ kỹ thuật hiện đại gồm chủ yếu là máy vi tính và phần mềm máy vi tính được sử dụng để xử lý, lưu giữ, trình bày, chuyển đổi, bảo vệ, gửi và nhận thông tin số một cách an toàn.
CNTT là một hệ thống các phương pháp khoa học, công nghệ, phương tiện, công cụ, bao gồm chủ yếu là các máy tính, mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa,… của con người.
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia: Công nghệ thông tin (tiếng Anh là: Information technology gọi tắt là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin, là ngành sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền và thu nhập thông tin.
Ở Việt Nam, Nghị quyết số 49/CP của Chính phủ ký ngày 04/08/1993 về “Phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 90 nêu: CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại-chủ yếu là kỹ thuật máy tính và viễn thông nhằm tổ chức, khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm tàng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội”.
Từ những phân tích trên, để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, trong luận án của mình chúng tôi thống nhất hiểu như sau: CNTT là tập hợp công cụ kỹ thuật hiện đại gồm chủ yếu là máy vi tính và phần mềm máy vi tính được sử dụng để xử lý, lưu giữ, trình bày, chuyển đổi, bảo vệ, gửi và nhận thông tin số một cách an toàn.
* Ứng dụng công nghệ thông tin
Ứng dụng công nghệ thông tin là việc sử dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh và các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các hoạt động này [11].
Ứng dụng CNTT vào các hoạt đông dạy học là sự vận dụng kiến thức, kỹ năng về CNTT vào quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh truyền thụ và lĩnh hội những thực khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo hoạt động nhân thức thục tiễn, để trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dụng các phẩm chất nhân cách theo mục đích giáo dục.
Đổi mới dạy học cần phải ứng dụng các phương tiện, kĩ thuật, công nghệ mới đặc biệt chú trọng đến kĩ thuật đa phương tiện. Để làm được điều này hiện nay, đều phải dựa vào máy tính hay CNTT. CNTT sẽ làm thay đổi tư duy về giáo dục, thay đổi chất lượng lao động, chống nhàm chán, đồng thời góp phần đa dạng hóa các loại hình đào tạo: đào tạo từ xa, từ xa qua mạng, trung tâm học tập cộng đồng.
CNTT không chỉ dừng ở việc đổi mới phương pháp dạy học mà nó còn tham gia vào mọi lĩnh vực trong nhà trường, đặc biệt trong vai trò của quản lý. CNTT là công cụ hỗ trợ đắc lực ở tất cả các khâu, các nội dung công tác của người quản lý, từ việc lập kế hoạch, xếp thời khóa biểu, lịch công tác đến việc thanh kiểm tra, thống kê, đánh giá, xếp loại,...
1.2.4. Quản lý ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Từ khái niệm quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, có thể hiểu: Quản lý ứng dụng CNTT trong dạy học là sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng nhà trường) đến hoạt động ứng dụng kiến thức, kỹ năng CTT vào giảng dạy, giúp hoạt động này diễn ra một cách có hiệu quả.
Muốn tổ chức triển khai ứng dụng cộng nghệ thông tin vào hoạt động dạy học có hiệu quả đòi hỏi nhà quản lý phải xây dựng kế hoạch quản lý ứng dụng CNTT và hoạt động giảng dạy; Xác định mục đích của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy cũng như những điều kiện để thực hiện hoạt động này.
Nhà quản lý cũng phải nắm chắc các kiến thức về dạy học, về CNTT để có thể ứng dụng được CNTT vào các thành tố của hoạt động dạy học và quản lý chặt chẽ việc ứng dụng CNTT vào các thành tố đó.
1.3. Một số vấn đề về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường cao đẳng sư phạm
1.3.1. Một số đặc điểm tâm lý sinh viên Cao đẳng sư phạm
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ sovới các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình
cảm trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu,khát vọng thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách.
Sinh viên là một nhóm xã hội đặc biệt, đang tiếp thu những kiến thức, kỹ năng chuyên môn ở các trường cao đẳng, đại học để chuẩn bị cho hoạt động nghề nghiệp sau khi ra trường.
Mỗi một lứa tuổi khác nhau đều có những đặc điểm tâm lý nổi bật, chịu sự chi phối của hoạt động chủ đạo. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến sinh viên, những người có hoạt động chủ đạo là học tập để tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp ở các trường cao đẳng, đại học. Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng nhất ở lứa tuổi thanh niên - sinh viên là sự phát triển tự ý thức. Nhờ có tự ý thức phát triển, sinh viên có những hiểu biết, thái độ, có khả năng đánh giá bản thân để chủ động điều chỉnh sự phát triển bản thân theo hướng phù hợp với xu thế xã hội. Chẳng hạn sinh viên đang học ở các trường cao đẳng, đại học sư phạm, họ nhận thức rõ ràng về những năng lực, phẩm chất của mình, mức độ phù hợp của những đặc điểm đó với yêu cầu của nghề nghiệp, qua đó họ sẽ xác định rõ ràng mục tiêu học tập, rèn luyện và thể hiện bằng hành động học tập hàng ngày trong giờ lên lớp, thực tập nghề hay nghiên cứu khoa học. Nhờ khả năng tự đánh giá phát triển mà sinh viên có thể nhìn nhận, xem xét năng lực học tập của mình, kết quả học tập cao hay thấp phụ thuộc vào ý thức, thái độ, vào phương pháp học tập của họ.
Ở SV đã bước đầu hình thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá vấn đề cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày. Sinh viên là những trí thức tương lai, ở các em sớm nảy sinh nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ hội tốt để SV được trải nghiệm bản thân, vì thế, sinh viên rất thích khám phá, tìm tòi cái mới, đồng thời, họ thích bộc lộ những thế mạnh của bản thân, thích học hỏi, trau dồi, trang bị vốn sống, hiểu biết cho mình, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
Một đặc điểm tâm lý nổi bật nữa ở lứa tuổi này là tình cảm ổn định của sinh viên, trong đó phải đề cập đến tình cảm nghề nghiệp - một động lực giúp họ học tập một cách chăm chỉ, sáng tạo, khi họ thực sự yêu thích và đam mê với nghề lựa chọn.
Sinh viên là lứa tuổi đạt đến độ phát triển sung mãn của đời người. Họ là lớp người giàu nghị lực, giàu ước mơ và hoài bão. Tuy nhiên, do quy luật phát triển không đồng đều về mặt tâm lý, do những điều kiện, hoàn cảnh sống và cách thức giáo
dục khác nhau, không phải bất cứ sinh viên nào cũng được phát triển tối ưu, độ chín muồi trong suy nghĩ và hành động còn hạn chế. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hoạt động của bản thân mỗi sinh viên. Bên cạnh đó, sự quan tâm đúng mực của gia đình, phương pháp giáo dục phù hợp từ nhà trường sẽ góp phần phát huy ưu điểm và khắc phục những hạn chế về mặt tâm lý của SV.
Bên cạnh những mặt tích cực trên đây, mặc dù là những người có trình độ nhất định, sinh viên không tránh khỏi những hạn chế chung của lứa tuổi thanh niên. Đó là sự thiếu chín chắn trong suy nghĩ, hành động, đặc biệt, trong việc tiếp thu, học hỏi những cái mới. Ngày nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, trong điều kiện phát triển công nghệ thông tin, nền văn hoá của chúng ta có nhiều điều kiện giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hoá trên thế giới, kể cả văn hoá phương Đông và phương Tây. Việc học tập, tiếp thu những tinh hoa, văn hoá của các nền văn hoá khác là cần thiết. Tuy nhiên, do đặc điểm nhạy cảm, ham thích những điều mới lạ kết hợp với sự bồng bột, thiếu kinh nghiệm của thanh niên, do đó, sinh viên dễ dàng tiếp nhận cả những nét văn hoá không phù hợp với chuẩn mực xã hội, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và không có lợi cho bản thân họ.
Lứa tuổi sinh viên có những nét tâm lý điển hình, đây là thế mạnh của họ so với các lứa tuổi khác như: tự ý thức cao, có tình cảm nghề nghiệp, có năng lực và tình cảm trí tuệ phát triển (khao khát đi tìm cái mới, thích tìm tòi, khám phá), có nhu cầu, khát vọng thành đạt, nhiều mơ ước và thích trải nghiệm, dám đối mặt với thử thách. Song, do hạn chế của kinh nghiệm sống, sinh viên cũng có hạn chế trong việc chọn lọc, tiếp thu cái mới. Những yếu tố tâm lý này có tác động chi phối hoạt động học tập, rèn luyện và phấn đấu của sinh viên.
1.3.2. Tầm quan trọng của hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường CĐSP
Đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là phương tiện để tiến tới một xã hội học tập”.
Công nghệ thông tin mở ra triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học. Những phương pháp dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có
nhiều điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy theo chủ đề, dạy theo nhóm cũng có những đổi mới trong môi trường công nghệ thông tin.
Đối với giảng viên: Việc ứng dụng CNTT trong dạy học giúp GV đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của SV. GV tích hợp CNTT vào từng môn học thay vì chỉ được học trong môn Tin học. Việc sử dụng CNTT như là phương tiện hỗ trợ cung cấp kênh hình với nhiều hình ảnh sinh động, âm thanh, video mà không phải mang vác nhiều tranh ảnh, bảng phụ, máy móc thiết bị khác; CNTT với nhiều phần mềm tiện ích là công cụ hỗ trợ đắc lực cho GV trong công tác soạn bài, quản lý điểm, đánh giá xếp loại SV… được tiện lợi và nhanh chóng.
Qua tiếp xúc, làm quen, khai thác và ứng dụng CNTT vào dạy học mà GV đã có sự chuyển đổi về nhận thức, từ qui định (mang tính áp đặt) lúc ban đầu sang tâm thế thích thú với bài giảng ứng dụng CNTT. Từ yêu thích đến chủ động học hỏi nên kỹ năng soạn giảng các tiết có ứng dụng CNTT của GV không ngừng được nâng lên, chất lượng bài dạy cũng tốt hơn, hấp dẫn với SV hơn. Với sự hỗ trợ của máy tính và một số phần mềm dạy học cùng các thiết bị đi kèm, GV có thể tổ chức tiết học một cách sinh động, các bài giảng không chỉ mang hơi thở cuộc sống hiện đại gần gũi hơn với SV mà còn giúp cả người dạy và người học được tiếp xúc với các phương tiện hiện đại, làm giàu thêm vốn hiểu biết của mình.
Tuy nhiên, mỗi GV cũng cần xác định rõ: ứng dụng CNTT không đồng nhất với đổi mới phương pháp dạy học, CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho triển khai phương pháp tích cực chứ không phải là điều kiện đủ của phương pháp này. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình dạy học. Để một giờ học có ứng dụng CNTT là một giờ học phát huy tính tích cực của SV thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu và tính đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực mà GV sử dụng.
Việc ứng dụng CNTT vào dạy học góp phần đổi mới phương pháp dạy học là một công việc khó khăn, lâu dài, đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ GV. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT trong dạy học có hiệu quả cần có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất của các cấp, sự chỉ đạo đồng bộ của ngành - của mỗi nhà trường và đặc biệt là sự nỗ lực học
hỏi, rút kinh nghiệm của bản thân mỗi GV thì việc ứng dụng CNTT vào dạy học cũng như đổi mới phương pháp mới đạt hiệu quả cao góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của mỗi nhà trường.
Đối với sinh viên: Việc áp dụng công nghệ thông tin sẽ giúp SV có nhiều cơ hội tương tác với GV để cải thiện được những quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình. Điều này không chỉ giúp các em ngày thêm tự tin mà còn để cho GV hiểu thêm về năng lực, tính cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trò, từ đó có những điều chỉnh phù hợp và khoa học.
Bên cạnh đó việc được tiếp xúc nhiều với công nghệ thông tin trong lớp học còn mang đến cho SV những kỹ năng tin học cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, đây sẽ là nền tảng và sự trợ giúp đắc lực giúp học sinh đa dạng và sáng tạo các buổi thuyết trình trước lớp, đồng thời tăng cường khả năng tìm kiếm thông tin cũng như tin tức cho bài học của các em.
Đối với cán bộ quản lý: Trong quản lý, khai thác tài nguyên: Ngoài ra, CNTT còn giúp nhà trường trao đổi thông tin, quản lý, lưu trữ dữ liệu trực tuyến, giúp GV khai thác và tích lũy kiến thức thông qua việc khai thác tài nguyên trên mạng internet, sử dụng “nguồn học liệu mở” về đề thi, giáo án, tài liệu tham khảo trên websile của Bộ, Sở, Phòng, ….
1.3.3. Nội dung và hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường CĐSP
1.3.3.1. Nội dung ứng dụng CNTT trong dạy học ở trường CĐSP
Với mục tiêu đi tiên phong là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập cho sinh viên, tạo ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao chứ không đơn thuần chỉ là “thầy đọc, trò chép” như kiểu truyền thống, SV được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lý quá trình tự học tập, tự rèn luyện của bản thân mình, việc ứng dụng CNTT vào dạy học đã và đang phát huy được tính ưu việt của nó. Từ những lợi ích CNTT mang lại, trong dạy học, việc ứng dụng CNTT tập trung vào một số nội dung sau:
Ứng dụng CNTT trong thiết kế bài giảng: Ứng dụng CNTT trong thực hiện bài giảng
Ứng dụng CNTT trong kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh
Ứng dụng CNTT trong khai thác học liệu
Ứng dụng CNTT trong chia sẻ tài liệu với sinh viên và đồng nghiệp
Ứng dụng CNTT trong tương tác, trao đổi bài học với sinh viên và đồng nghiệp
1.3.3.2. Hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Giảng dạy bằng bài giảng điện tử: Giảng dạy bằng bài giảng điện tử theo công nghệ e Learning có ưu điểm là tạo hứng thú cho cả thầy và trò trong buổi học nhờ có sự truyền đạt và tiếp nhận bài giảng thông qua những hình thức phong phú, đa dạng như hình ảnh, âm thanh giúp cho học sinh học tập hiệu quả, tiếp nhận bài giảng dễ hiểu hơn. Đồng thời , giáo viên được giảm nhẹ việc thuyết giảng, có điều kiện trao đổi, thảo luận với học sinh về những vấn đề nảy sinh, giúp cho giờ học thêm sinh động.
Tham khảo sách và giáo trình điện tử: Hiện nay, phần lớn các thư viện, nhà xuất bản, viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng trong nước và nước ngoài đều có trang web riêng. Trên các trang web đó có đăng tải các công trình nghiên cứu khoa học, các cuốn sách và giáo trình điện tử. Ứng dụng này hỗ trợ rất lớn trong việc tham khảo tài liệu của giáo viên và học sinh, sinh viên.
Ứng dụng thiết bị điện tử vào quá trình dạy học: Một số thiết bị nghe thường dùng trong nhà trường là máy ghi âm (cassette) + băng từ, máy ghi âm kỹ thuật số; các thiết bị nhìn như máy đèn chiếu (slide projector) + phim dương bản, máy phóng hình (overhead projector) + phim (film) A4, + phim nhựa; các phương tiện nghe nhìn như máy chiếu phim video, băng từ + Ti vi (television), đầu đĩa VCD, DVD ,Ti vi, máy chiếu đa chức năng (multimedia projector)… Sinh viên được học tập thường xuyên trong môi trường có các thiết bị điện tử sẽ luôn tăng hứng thú học tập, phát huy khả năng tư duy sáng tạo.
Tìm kiếm tài liệu và thông tin trên mạng: Có thể thấy rằng, Internet và máy tính chính là một phương tiện giúp mỗi người tự học tốt nhất. Giáo viên và sinh viên có thể tìm kiếm, tra cứu tri thức về mọi lĩnh vực.
1.4. Quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
1.4.1. Quản lý việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Để việc quản lý hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy học hiệu quả, Hiệu trưởng phải lập kế hoạch cho quá trình quản lý hoạt động ứng dụng CNTT trong dạy