Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 2

Liên quan đến phương tiện tài trợ ngoại thương, những rủi ro trong hoạt động xuất nhập khẩu quyết định trước hết khả năng tài trợ thuần tuý, bên cạnh đó quyết định cả chi phí cho việc tài trợ. So sánh với nội thương, trong ngoại thương nảy sinh thêm nhiều rủi ro mà các rủi ro nhỏ nhất theo thông lệ thường bắt nguồn từ các khoảng cách lớn hơn, đó là những trật tự kinh tế xã hội và luật pháp ở các nước xa lạ, cũng phát sinh cả từ rào cản về ngôn ngữ.

Các loại rủi ro xuất hiện trong hoạt động xuất nhập khẩu gồm:

- Rủi ro về khả năng thanh toán: vì có ít thông tin hơn và thông tin khó đánh giá hơn về khả năng thanh toán của khách hàng và địa vị của họ trên thị trường ở trong nước họ. Các rủi ro người nhận hàng không thanh toán vì lý do không muốn thanh toán hoặc không có khả năng thanh toán.

- Rủi ro về tiêu thụ: Bên cạnh rủi ro về thanh toán, người bán hàng còn phải chịu rủi ro về tiêu thụ.

- Rủi ro về vận chuyển: những khoảng cách thường rất xa trong ngoại thương cũng như những nguy hiểm có thể xảy ra bởi sự bất thường của tự nhiên làm cho việc vận chuyển cao hơn trong nội thương.

- Rủi ro về pháp lý: là những rủi ro có thể nảy sinh trên cơ sở các tiêu chuẩn pháp lý khác nhau giữa các nước.

- Rủi ro về tỷ giá hối đoái: rủi ro này nảy sinh vì ít nhất một đối tác phải dự tính bằng ngoại tệ, trong hệ thống tỷ giá thả nổi thì rất khó có thể dự tính chính xác tỷ giá đối với các hợp đồng dài hạn.

- Các rủi ro về đất nước thuộc loại rủi ro mang tính chất kinh tế và luật pháp nhiều hơn, những nhân tố rủi ro được quyết định về chính trị là: chiến tranh, cách mạng, nổi loạn...; tình hình kinh tế không thuận lợi như: thiếu nguyên vật liệu, kém phát triển, nợ quá nhiều, tỷ lệ lạm phát cao và giảm giá trị tiền tệ, rủi ro về chuyển đổi, rủi ro về chu chuyển, rủi ro về cấm thanh toán và rủi ro vì bị cấm vận.

3.2. Nhu cầu tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.

3.2.1. Nhu cầu tài trợ của nhà xuất khẩu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.

Việc thực hiện nghiệp vụ ngoại thương thường kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường có thể hình thành nhu cầu tài trợ nhiều mặt liên quan đến các giai đoạn của nghiệp vụ xuất khẩu:

- Khâu phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch cũng phát sinh nhu cầu tài trợ;

Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam - 2

- Đưa ra đề nghị chào hàng: các đề nghị chào hàng trong khuôn khổ đấu thầu quốc tế thường kèm theo bản đảm bảo đấu thầu của một ngân hàng thương mại có tên tuổi, chính là phát sinh nhu cầu bảo lãnh dự thầu;

- Ký kết hợp đồng: nhà xuất khẩu nhận tiền đặt cọc thì nhà nhập khẩu có thể yêu cầu một bảo đảm ngân hàng cho khoản tiền đặt cọc của mình. Lúc này phát sinh nhu cầu vay mượn chữ tín ngân hàng của nhà xuất khẩu.

- Chuẩn bị sản xuất: đây là giai đoạn phát sinh nhu cầu tài trợ về vốn ngân hàng để nhà xuất khẩu có thể tiến hành sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng tiến độ vì thường giai đoạn này phát sinh rất nhiều chi phí nếu bằng vốn tự có của mình nhà xuất khẩu không đủ khả năng để trang trải.

- Giai đoạn sản xuất: ở giai đoạn này cũng sẽ nảy sinh nhu cầu tài chính cao về vật tư và lương cho công nhân sản xuất.

- Cung ứng: cả quá trình cung ứng cũng có thể phát sinh chi phí về vận tải và bảo hiểm tuỳ theo điều kiện cung ứng.

- Mục tiêu thanh toán: phạm vi chủ yếu của việc tài trợ xuất khẩu chính trong giai đoạn này. Không có sự giúp đỡ của các ngân hàng và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cả các công ty mạnh về tài chính cũng không thể đáp ứng được toàn bộ nhu cầu tài trợ này.

3.2.2. Nhu cầu tài trợ của nhà nhập khẩu.

Giống như ở phía nhà xuất khẩu, ở phía nhà nhập khẩu cũng hình thành nhu cầu tài trợ nhiều mặt:

- Trước khi ký hợp đồng

- Ký hợp đồng: nhu cầu tài trợ cho các khoản đặt cọc

- Thời gian sản xuất và hoàn thành công trình: có thể phải thanh toán các khoản giữa chừng‌

- Cung ứng và vận chuyển hàng hoá: nhu cầu tài trợ cho các phí tổn và vận tải và bảo hiểm

- Nhận hàng hoá: nhu cầu tài trợ thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán

Các ngân hàng thương mại với chức năng và đặc điểm trong hoạt động kinh doanh của mình là nhân tố không thể thiếu được trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu.

II. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại.

1. Khái niệm, bản chất của tín dụng.

Thuật ngữ “tín dụng” xuất phát từ chữ Latin CREDITIUM với nghĩa là tin tưởng, tín nhiệm.

Trong từ điển tiếng Việt 1997 thì “Tín dụng” được định nghĩa là sự vay mượn vật tư, tiền mặt, hàng hoá.

Theo K.Marx: “Tín dụng” là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.

Theo Luật các tổ chức tín dụng 2004: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.

Như vậy, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sở hữu một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời gian nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn. Khoản giá trị dôi ra này gọi là lợi tức tín dụng. Theo nghĩa rộng, quan hệ tín dụng gồm hai mặt: huy động vốn và tiến hành cho vay.

Trong thực tế tín dụng rất phong phú và đa dạng. Luật Ngân hàng các nước định nghĩa tín dụng:" Cấu thành một nghiệp vụ tín dụng bất cứ tác động nào, qua đó một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng, hoặc cam kết bằng

chữ ký cho người vay như bảo đảm, bảo chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền", hình thành nên ba nghiệp vụ tín dụng cơ bản của ngân hàng, đó là: cho vay, chiết khấu, bảo lãnh.

Bản chất của tín dụng được thể hiện là hình thức vận động của vốn tiền tệ trong xã hội theo nguyên tắc có hoàn trả nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống của người dân.

2. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.

2.1. Sự ra đời và phát triển của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất nhập khẩu trở thành vấn đề quan trọng. Thị trường thương mại Thế giới mở rộng không ngừng, nhu cầu về thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư đang trở thành nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu không phải lúc nào cũng có đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc đủ vốn để thu mua, chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh quan hệ vay mượn và sự giúp đỡ tài trợ của ngân hàng.

Quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, phức tạp nên những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi sự tham gia của các ngân hàng thương mại (NHTM). Ngân hàng đem lại cho các nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết về kĩ thuật và chỗ dựa tài chính trong lĩnh vực quan trọng này. Có thể nói sự ra đời và phát triển của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu khách quan, ra đời gắn liền với các quan hệ giao dịch ngoại thương giữa các nước với nhau.

2.2. Bản chất và vai trò của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu.

Tài trợ xuất nhập khẩu được hiểu là sự chuẩn bị sẵn sàng những phương tiện tài chính và thay thế về mặt tài chính (vay tín dụng) để hoàn tất nghĩa vụ thanh toán và sản xuất trong quan hệ kinh tế đối ngoại cũng như đảm bảo các quá trình thanh toán liên quan. Từ đó có thể thấy bản chất của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM là sự vận động của giá trị vốn tín dụng dưới hình thái tiền tệ hoặc hàng hoá trong xuất khẩu cả trong giai đoạn sản xuất và trong nhập khẩu trên phương diện từ ngắn hạn đến dài hạn. Hay tín dụng tài trợ xuât nhập khẩu là

một mảng dịch vụ thuộc hệ thống tất cả các dịch vụ chuyên biệt của ngân hàng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu. Mảng dịch vụ này có nét chung là ngân hàng cung ứng vốn bằng tiền hoặc bảo lãnh giúp cho các doanh nghiệp gia tăng hiệu quả kinh doanh và thực hiện thương vụ thành công.

Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước. Vai trò của nó được thể hiện ở các mặt sau:

- Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay để nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị kĩ thuật, dây chuyền sản xuất chế biến hàng nhập khẩu với công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm tạo khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu và kinh doanh có lãi;

- Nhờ có sự tài trợ của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, đồng thời thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho ngân sách Nhà nước;

- Tạo điều kiện thuận lợi giúp các đơn vị tiểu thủ công nghiệp phát triển sản xuất, tăng nhanh lượng hàng hoá, tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu, thâm nhập, mở rộng thị trường tiêu thụ, đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu;

- Tín dụng xuất nhập khẩu còn góp phần nhập khẩu các hàng hóa tiêu dùng cần thiết cho đời sống và sinh hoạt của nhân dân;

- Tín dụng xuất nhập khẩu còn góp phần quan trọng phục vụ chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, góp phần mở rộng kinh tế đối ngoại với các nước trên Thế giới.

2.3. Vai trò của hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu trong nền kinh tế.

2.3.1. Đối với Ngân hàng thương mại.

Tài trợ của ngân hàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu là hình thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi vốn nhanh cho ngân hàng, bởi:

- Thời gian tài trợ ngắn hạn do gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ. Kỳ hạn tài trợ ngắn phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của các NHTM , thường là dưới một năm. Điều này giúp ngân hàng tránh được rủi ro về thanh khoản.

- Tài trợ xuất nhập khẩu nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán. Vì đối với người xuất khẩu, khi ngân hàng chuyển bộ chứng từ giao hàng để đòi tiền người nhập khẩu, thì đã chỉ định việc thanh toán tiền hàng phải thông qua tài khoản của người xuất khẩu mở tại ngân hàng; đối với người nhập khẩu, trong trường hợp có tài trợ, ngân hàng sẽ buộc người nhập khẩu tập trung tiền bán hàng vào tài khoản mở tại ngân hàng. Do vậy, tránh được tình trạng xoay vốn của doanh nghiệp.

- Hiệu quả của ngân hàng trong tài trợ xuất nhập khẩu thể hiện thông qua lãi suất. Có nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ: lãi suất cho vay thanh toán, lãi suất chiết khấu chứng từ, lãi suất vay bắt buộc... Tiền thu lãi cao vì thường giá trị tài trợ ở mức vừa và lớn.

-Thông qua tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng còn mở rộng được các quan hệ với các doanh nghiệp và với các ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín của ngân hàng trên trường quốc tế.

2.3.2. Đối với doanh nghiệp.

- Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng giúp doanh nghiệp thực hiện được các thương vụ lớn.

- Nếu doanh nghiệp được sự giúp đỡ của ngân hàng về mặt tài chính và các quan hệ thanh toán quốc tế thì sẽ tạo rất nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình đàm phán, thương lượng ký kết hợp đồng ngoại thương.

- Tài trợ xuất nhập khẩu làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng.

- Tài trợ xuất nhập khẩu giúp cho doanh nghiệp nâng cao khả năng sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nhờ những đổi mới về trang thiết bị công nghệ từ vốn tài trợ của ngân hàng.


tế.

- Tài trợ của ngân hàng giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín trên trường quốc


2.3.3. Đối với nền kinh tế quốc dân.

- Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho hàng

hoá xuất nhập khẩu lưu thông trôi chảy, hàng hoá xuất nhập khẩu theo nhu cầu của thị trường được thực hiện thường xuyên, liên tục góp phần tăng tính năng động của nền kinh tế, ổn định thị trường.

- Tài trợ xuất nhập khẩu giúp các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và các doanh nghiệp phát triển, làm ăn có hiệu quả, từ đó góp phần vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước.

2.4. Nguyên tắc trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của các ngân hàng.

2.4.1. Việc hỗ trợ tài chính phải trên cơ sở thẩm định rõ khách hàng.

Đây là nguyên tắc đầu tiên và cũng là nguyên tắc vô cùng quan trọng trong công tác tín dụng nói chung và tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng. Nguyên tắc này ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của quyết định tín dụng cũng như những rủi ro mà ngân hàng gặp phải. Cán bộ tín dụng thẩm định hồ sơ khách hàng theo các mục:

- Thẩm định tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, của dự án.

- Đánh giá tình hình tài chính, công nợ của khách hàng.

- Tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ vay của khách hàng.

2.4.2. Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo đúng thời hạn cam

kết.

Để thực hiện nguyên tắc này, ngân hàng và khách hàng phải thoả thuận với

nhau về số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay. Việc định kỳ hạn nợ phải phù hợp với chu kỳ sản xuất, thời gian giao hàng, thời gian tiêu thụ hàng.

2.4.3. Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích như đã cam kết khi vay vốn, có hiệu quả kinh tế.

Khi cho khách hàng vay phải nắm rõ khách hàng vay để làm gì. Trong quá trình cho vay ngân hàng sẽ giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng, nếu

không đúng mục đích sẽ thu hồi nợ trước hạn. Việc sử dụng vốn vay phải được thảm định là có hiệu quả kinh tế để đảm bảo nguồn thu nợ gốc và lãi.‌

III. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàngthương mại.

1. Tài trợ trên cơ sở thương phiếu.

Thương phiếu bao gồm hối phiếu và kỳ phiếu, là công cụ thanh toán được sử dụng hết sức phổ biến trong các giao dịch ngoại thương và thường xuất hiện trong các phương thức thanh toán quốc tế thông dụng hiện nay

1.1. Khái niệm và đặc điểm của hối phiếu.

Năm 1930, hội nghị về Luật hối phiếu được tổ chức tại Geneve, các nước thành viên đã phê chuẩn Công ước về Luật hối phiếu, gọi là công ước Geneve 1930 về Luật hối phiếu thống nhất (Uniform Law for Bill of Exchange- Geneve Convention 1930, ULB 1930).

Ngày nay, Luật hối phiếu thống nhất ULB 1930 có hiệu lực tại tất cả các nước châu Âu (ngoại trừ Anh). Nhiều nước khác mặc dù không tham gia công ước Geneve, nhưng vẫn xây dựng Luật hối phiếu của họ tương tự như ULB 1930. Ngoài ra hai nước Mỹ và Anh cũng xây dựng riêng Luật về hối phiếu như: hệ thống luật các nước thuộc khối Anglo-saxon dựa trên cơ sở Luật hối phiếu của Anh( Bill of Exchange Act 1882)và Luật thương mại thống nhất của Mỹ(Uniform Commercial Codes of 1962).

Tại Việt Nam, ngày 24/12/1999, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 17/1999/PL-UBTVQH10 về Thương phiếu có hiệu lực từ ngày 01/07/2000. Nhìn chung Pháp lệnh thương phiếu của Việt Nam được xây dựng trên nền tảng của Công ước Geneve 1930.[2]

Các nước tham gia ký kết Công ước Geneve 1930 không đi đến việc thoả thuận trong việc định ra khái niệm hối phiếu là gì để quy định trong ULB mà các nước này thoả thuận dùng định nghĩa hối phiếu của Luật hối phiếu 1882 của Anh làm dẫn chiếu trong khái niệm hối phiếu của ULB.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/04/2024