vấn đề về giao tiếp, dạy học Tiếng Việt của HS tiểu học cũng như các vấn đề về ngôn ngữ của các vùng miền ở nhiều khía cạnh khác nhau nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục ngôn ngữ tiếng việt cho học sinh tiểu học DTTS, giúp các em sử dụng ngôn ngữ tiếng việt tự tin trong giao tiếp, trong học tập và trong cuộc sống. Trên cơ sở đó chúng tôi chọn đề tài “Quản lý hoạt động giáo dục ngôn ngữ tiếng việt cho học sinh tiểu học DTTS huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên” để nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Từ khi xã hội phát triển và chính từ sự phân công trong lao động đã hình thành hoạt động đặc biệt đó là sự chỉ huy, chỉ đạo, điều hành... của người đứng đầu trong một nhóm hay một tổ chức. Hoạt động đó chính là hoạt động quản lý và đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý dưới các góc độ tiếp cận riêng được đưa ra như: Quản lý là vận dụng khái thác các nguồn lực để đạt được những kết quả mong muốn hay quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo đảm sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của người khác, đó cũng là công tác phối hợp có hiệu quả của những người cộng sự khác cùng trong một tổ chức... trong giới hạn của luận văn, tác giả xin phép không đề cập đến các định nghĩa theo từng cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu.
Từ điển Giáo dục học cho rằng: “Quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [38, tr.326].
Về cơ bản quản lý là tác động lên con người, sự vật để điều hành các hoạt động có lợi cho tổ chức và đạt được những mục tiêu đề ra. Quản lý là tìm cách, biết cách ràng buộc một cách thông minh, tế nhị việc thỏa mãn nhu cầu cho con người, trên cơ sở đó khích lệ con người đem hết năng lực thực hiện công việc được giao hoặc có thể bằng cách nào đó từ sự tác động của quản lý, người bị quản lý luôn hồ hởi, phấn khởi đem hết năng lực và trí tuệ để sáng tạo ra lợi ích cho bản thân, tổ chức và xã hội.
Từ những phân tích trên, tác giả quan niệm Quản lý là quá trình (lập kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá) có mục đích, có kế hoạch, có định hướng của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong một tổ chức nhằm tác động để tổ chức vận hành có hiệu quả và đạt được mục tiêu đề ra.
1.2.2. Giáo dục, hoạt động giáo dục
- Giáo dục:
Giáo dục theo tiếng Hán thì giáo có nghĩa là dạy, dục là nuôi, nghĩa là rèn luyện về tinh thần nhằm phát triển tri thức, tình cảm đạo đức và săn sóc về mặt thể chất. Vậy giáo dục là sự rèn luyện con người về ba phương diện trí tuệ, tình cảm, thể chất nhằm đưa con người từ không biết đến biết, từ xấu đến tốt, từ thấp kém đến cao thượng, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Ngày nay, khái niệm giáo dục được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí hoạt động giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số tại các trường tiểu học huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên - 1
- Quản lí hoạt động giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số tại các trường tiểu học huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên - 2
- Cơ Sở Lý Luận Về Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Ngôn Ngữ Tiếng Việt Cho Hs Dân Tộc Thiểu Số Tại Trường Tiểu Học.
- Nội Dung Giáo Dục Ngôn Ngữ Tiếng Việt Cho Hs Tiểu Học Dtts
- Chỉ Đạo Thực Hiện Hoạt Động Giáo Dục Ngôn Ngữ Tiếng Việt Cho Hsdtts Tại Trường Tiểu Học
- Tổng Số Học Sinh Tiểu Học Người Dân Tộc Thiểu Số Năm Học 2019-2020
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
+ Giáo dục (Theo nghĩa rộng): Là sự hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích, có tổ chức thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo dục với người được giáo dục nhằm giúp người được giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người.
+ Giáo dục (theo nghĩa hẹp): Đó là một bộ phận của quá trình sư phạm, là quá trình hình thành những cơ sở khoa học của thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những tính cách, những hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội, kể cả việc phát triển và nâng cao thể lực. Chức năng trội của quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) chỉ được thực hiện trên cơ sở vừa tác động đến ý thức, vừa tác động đến tình cảm và hành vi.
Như vậy, Giáo dục là quá trình hình thành ở con người niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách, những hành vi và thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội.
- Hoạt động giáo dục:
Hoạt động giáo dục có thể hiểu theo hai cấp độ:
Theo nghĩa rộng: Hoạt động giáo dục là loại hình hoạt động đặc thù của xã hội loài người nhằm tái sản xuất những nhu cầu của và năng lực của con người để duy trì phát triển xã hội, để hoàn thiện các mối quan hệ xã hội thông
qua các hình thức, nội dung, biện pháp tác động có hệ thống, có phương pháp, có chủ định đến đối tượng nhằm hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách trên tất cả các mặt đức, trí, thể, mĩ.
Theo nghĩa hẹp: Hoạt động giáo dục là hoạt động sư phạm được tổ chức trong nhà trường một cách có kế hoạch, có mục đích. Trong đó dưới vai trò chủ đạo của nhà giáo dục, người được giáo dục tích cực, chủ động tự giáo dục, tự rèn luyện nhằm hình thành cơ sở của thế giới quan nhân sinh quan khoa học, những phẩm chất, nét tính cách của người công dân người lao động.
1.2.3. Học sinh dân tộc thiểu số
Khái niệm dân tộc thiểu số được dùng để chỉ các nhóm người có những sự khác biệt về một phương diện nào đó với cộng đồng người chung trong xã hội. Họ có thể khác biệt với nhóm người đa số về phương diện ngôn ngữ và văn hoá. Khác biệt về nhận thức và tôn giáo, về hoàn cảnh kinh tế, điều kiện sống và thu nhập,... và đi kèm theo đó là sự khác biệt về phương thức ứng xử của cộng đồng đối với chính họ và như vậy học sinh dân tộc thiểu số là những học sinh người dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Việt Nam.
Học sinh DTTS là người đồng bào các DTTS ngay từ lúc nhỏ các em sống cùng gia đình nên thường xuyên phải nói tiếng dân tộc mình nhưng khi bước vào nhà trường thì buộc các em phải giao tiếp thành thạo ngôn ngữ tiếng Việt mới có thể theo học chương trình giáo dục, đào tạo hiện hành. Việc sử dụng ngôn ngữ bằng tiếng Việt còn hạn chế, gây cho các em có nhiều mặc cảm, thiếu tự tin, ngại đến lớp… Do vậy, việc giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh DTTS cần phải được coi trọng và thực hiện một cách thường xuyên, nghiêm túc nhằm giúp các em tự tin, có khả năng tiếp thu và giao tiếp bằng tiếng Việt một cách thành thạo, rút ngắn khoảng cách về khả năng học tập của các em học sinh thuộc các thành phần dân tộc khác nhau.
1.2.4. Giáo dục ngôn ngữ Tiếng Việt cho HS tiểu học DTTS
- Ngôn ngữ Tiếng Việt
Quyền và nghĩa vụ về ngôn ngữ của công dân Việt Nam được nêu trong các văn bản pháp lý của Nhà nước, được xác định bằng điều khoản trong Hiến pháp
và được quy định rõ tại các văn bản của Chính phủ. Trong giáo dục, ngôn ngữ được quy định rõ tại Khoản 1, Điều 11, Luật Giáo dục: “Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng trong cơ sở giáo dục. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Chính phủ quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục” [24].
Tiếng Việt là môn học nền tảng, quan trọng và cần thiết nhất ở bậc tiểu học. Bên cạnh việc học Toán để phát triển tư duy logic thì học Tiếng Việt giúp các em hình thành và phát triển tư duy ngôn ngữ. Thông qua Tiếng Việt, HS được học cách giao tiếp, biểu đạt tư tưởng, cảm xúc của mình với thế giới xung quanh một cách chính xác và biểu cảm.
- Giáo dục ngôn ngữ Tiếng Việt cho HS DTTS
Giáo dục ngôn ngữ Tiếng Việt cho HS DTTS là quá trình tác động có định hướng, mục đích, có kế hoạch của giáo viên tới học sinh, là quá trình giáo dục của nhà trường và các lực lượng liên đới thông qua các hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà nhằm đạt được mục tiêu đề ra, bước đầu hình thành các năng lực chung, phát triển năng lực ngôn ngữ ở tất cả các kĩ năng đọc, viết, nói và nghe với mức độ căn bản..
Giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS DTTS để hình thành cho HS kiến thức về lĩnh vực ngôn ngữ (nắm vững các đơn vị ngôn ngữ, quy tắc kết hợp giữa các đơn vị ngôn ngữ ấy ...); HS có kĩ năng tiến hành các hoạt động ngôn ngữ, biết vận dụng ngôn ngữ trong việc tiếp nhận, lĩnh hội văn bản (nghe - hiểu, đọc - hiểu) và tạo lập văn bản (nói, viết); HS có sẵn điều kiện tâm lí để tổ chức và thực hiện các tri thức, kĩ năng trong một cơ cấu thống nhất và theo một định hướng cụ thể, rõ ràng (ý chí, niềm tin, hứng thú, thái độ đối với ngôn ngữ tiếng Việt.
1.2.5. Quản lý hoạt động giáo dục ngôn ngữ Tiếng Việt cho HS tiểu học là người DTTS
Quản lý hoạt động giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS tiểu học là người DTTS bản chất là quá trình chủ thể quản lý lập kế hoạch, tổ chức và chỉ đạo thực hiện, kiểm tra, đánh giá hoạt động giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS DTTS.
Để quản lý tốt việc giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS tiểu học người DTTS đòi hỏi người quản lý phải nắm vững mục tiêu, nội dung chương trình, phương pháp, các hình thức tổ chức hoạt động giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt, nắm các yêu cầu cần thiết, cơ bản, nguồn lực cần có để thực hiện chương trình, hiểu đối tượng HS tiểu học DTTS, nắm vững các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá kết quả giáo dục, những yếu tố tác động tới quá trình giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt. Trên cơ sở đó sắp xếp, bố trí nhân lực, vật lực, huy động các tổ chức xã hội cùng tham gia thực hiện quá trình giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt một cách đồng bộ, đạt hiệu quả tối ưu nhất.
Quản lý giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS DTTS gồm các nội dung sau: Lập kế hoạch giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS DTTS tại trường tiểu học; Tổ chức hoạt động giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS tiểu học DTTS tại trường tiểu học; Chỉ đạo thực hiện hoạt động giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HSDTTS tại trường tiểu học; Kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện hoạt động giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS DTTS tại các trường tiểu học.
1.3. Những vấn đề cơ bản về hoạt động giáo dục ngôn ngữ Tiếng Việt cho HS tiểu học người DTTS tại trường tiểu học
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý của HS tiểu học DTTS
Do ảnh hưởng của điều kiện địa lý và kinh tế cũng như những yếu tố văn hoá, HS tiểu học DTTS có khả năng phát triển về nhận thức và ngôn ngữ kém hơn so với HS tiểu học thành phố và vùng miền xuôi. Tư duy ngôn ngữ - logíc của các em dừng lại ở mức độ trực quan cụ thể. Trong khi quan sát các sự vật, hiện tượng HS dân tộc khó phân biệt cái cơ bản với cái không cơ bản. Vì thế, nhiều khi thầy cô giáo thiếu kinh nghiệm trong sử dụng giáo cụ trực quan ở giờ học không những không có tác dụng mà còn có hại. Chính những đặc điểm này của tư duy đã ảnh hưởng đến các quá trình tâm lí khác của HS.
HS DTTS cũng như trẻ em ở lứa tuổi tiểu học nói chung đang hình thành và phát triển về sinh lý, tâm lý, xã hội các em đang từng bước tham gia vào xã hội, thế giới của mọi mối quan hệ. Ở lứa tuổi này, HS tiểu học chưa đủ ý thức,
chưa có đủ năng lực và phẩm chất như một người trưởng thành trong xã hội, các em luôn cần sự chỉ bảo, giúp đỡ, hướng dẫn của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội. HS tiểu học dễ thích nghi và tiếp nhận cái mới nhưng cũng thiếu sự tập trung cao độ, khả năng ghi nhớ và chú ý có chủ định còn hạn chế, tính tình hiếu động, dễ phản ứng bộc lộ rõ nét. Đối với trẻ em ở lứa tuổi tiểu học tri giác mới đơn thuần phản ánh những thuộc tính trực quan, cụ thể của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động lên giác quan. Tri giác giúp cho HS định hướng nhanh chóng và chính xác về thế giới xung quanh và còn giúp cho trẻ em điều chỉnh hoạt động một cách hợp lý. Đối với HS tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt vì nó là khâu trọng yếu gắn nhận thức với hoạt động, tình cảm tốt sẽ kích thích trẻ em nhận thức và thúc đẩy trẻ em hoạt động tích cực.
Bên cạnh những đặc điểm chung trên, HS người DTTS còn có nét đặc trưng riêng, những đặc trưng mang tính tộc người và những đặc trưng do điều kiện sống tạo nên: Về cảm giác, tri giác các em có độ nhạy cảm cao, nhưng định hướng tri giác theo các nhiệm vụ học tập còn thiếu tập trung, tri giác thường gắn với hành động, sự vật, hình ảnh trực tiếp, cụ thể, sự kiên trì còn hạn chế, dễ bột phát, dễ chán nản. Điểm nổi bật trong tư duy là các em chưa có thói quen làm việc trí óc, đa số các em ngại suy nghĩ động não, khi vấp phải vấn đề khó thường bỏ qua, tâm lý e ngại, dễ thừa nhận điều người khác nói, một phần lớn nguyên nhân do hạn chế về ngôn ngữ tiếng Việt. Về trí nhớ, phần lớn HS ghi nhớ máy móc dựa trên sự lặp đi lặp lại nhiều lần, vì vậy, để luyện cho HS ghi nhớ, GV phải hết sức kiên trì, nhẫn nại. Về chú ý, thiếu bền vững, nhịp độ học tập chậm vì nếu tiến độ học tập nhanh các em sẽ rối, không theo kịp và không hiểu bài. Về tình cảm, các em sống rất chân thành, yêu ghét rõ ràng, thầy cô cần tận dụng đặc điểm này để thiết lập các nhóm học tập tạo cơ hội cho các em giao lưu, chia sẻ ngôn ngữ tiếng Việt sẽ ngày một cải thiện hơn..
Đặc điểm nổi bật trong tư duy của một số HS dân tộc là thói quen lao động trí óc chưa bền, ngại suy nghĩ, ngại động não. Nhiều em không hiểu bài nhưng không biết mình không hiểu ở chỗ nào. Các em có thói quen suy nghĩ một chiều, dễ thừa nhận những điều người khác nói. Các thao tác tư duy như phân tích, tổng
hợp, khái quát ở HS dân tộc phát triển còn chậm và thiếu toàn diện các em mới chỉ nắm được một vài thuộc tính hoặc liên hệ bản chất của sự vật, hiện tượng nên khó tổng hợp, khái quát lại vấn đề.Do thiếu hụt vốn sống nên tưởng tượng của HS dân tộc còn mờ nhạt, thiếu sinh động (thể hiện rõ nhất trong các bài văn). Ngoài ra, sự tác động qua lại giữa quá trình nhận thức và sự phát triển ngôn ngữ của HS dân tộc có một điểm đáng lưu ý: Ngôn ngữ phát triển thì quá trình nhận thức cũng phát triển và nó làm cho vốn ngôn ngữ càng phong phú thêm. Song HS dân tộc lại gặp khó khăn: Trước khi các em đi học dùng ngôn ngữ của dân tộc mình nhưng trong quá trình nhận thức, tiếp thu tri thức lại diễn ra bằng ngôn ngữ tiếng Việt. Như vậy, các em gặp rất nhiều khó khăn trong học tập cũng như ngoài xã hội.
1.3.2. Vị trí vai trò của giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt trong chương trình giáo dục tiểu học
Với tư cách là ngôn ngữ quốc gia, phương tiện giao tiếp chung, ngôn ngữ tiếng Việt đã và đang đóng vai trò quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội là cầu nối cho sự thống nhất trong toàn xã hội, là phương tiện truyền tải các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến mọi miền đất nước và là công cụ truyền tải những tâm tư nguyện vọng của người dân đối với Đảng và Nhà nước; là tấm gương phản ánh đời sống xã hội thông qua các phương tiện thông tin đại chúng; là ngôn ngữ chính thức trong hệ thống giáo dục; là công cụ lưu giữ, tiếp nhận và truyền tải khoa học kĩ thuật và văn hóa của Việt Nam;… Có thể nói, chưa bao giờ tiếng Việt có sứ mệnh lịch sử lớn lao gắn sự phát triển của đất nước và sự hội nhập quốc tế như ngày nay.
Ngôn ngữ Tiếng việt ở bậc tiểu học có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng, thông qua việc giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt giúp HS DTTS phát triển năng lực ngôn ngữ, góp phần rèn luyện cho HS DTTS các thao tác tư duy cơ bản: phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán... và là cơ sở để HSDTTS tiếp thu tốt các môn học khác trong chương trình giáo dục hiện hành. Giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt nhằm cung cấp cho HS tiểu học DTTS những kiến thức sơ giản về ngôn ngữ Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người; về văn
hoá, văn học của Việt Nam và thế giới. Giáo dục ngôn ngữ Tiếng Việt cho HS tiểu học DTTS góp phần hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt.
Giáo dục tiếng Việt nhằm giúp cho HS DTTS có các kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học, tạo tiền đề để học sinh học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển bền vững đời sống nhân dân đặc biệt vùng dân tộc thiểu số.
1.3.3. Mục tiêu giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS tiểu học DTTS
Theo Đề án 'Tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non, học sinh (HS) tiểu học vùng DTTS giai đoạn 2016-2020, định hướng đến 2025' đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mục tiêu chung của đề án ”Tập trung tăng cường tiếng Việt cho trẻ em mầm non, học sinh tiểu học người dân tộc thiểu số, bảo đảm các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt để hoàn thành chương trình giáo dục mầm non và chương trình giáo dục tiểu học; tạo tiền đề để học tập, lĩnh hội tri thức của các cấp học tiếp theo; góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển bền vững các dân tộc thiểu số, đóng góp vào sự tiến bộ, phát triển của đất nước” [5].
Thông qua hoạt động giáo dục ngôn ngữ Tiếng Việt và thông qua các hoạt động giáo dục khác, giúp HS DTTS hình thành và phát triển các kĩ năng sử dụng ngôn ngữ Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp hàng ngày trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Sau khi học hết lớp 1 HS biết đọc và biết viết tiếng Việt thành thạo nhằm tạo nền tảng học tốt các môn học khác (Ngôn ngữ là công cụ tư duy). Biết giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nâng cao chất lượng học tập các môn học nói chung, giảm tỉ lệ HS bỏ học... giúp HS hào hứng tham gia các hoạt động đọc, kể chuyện, vui chơi... cùng cha mẹ sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt. Việc giáo dục ngôn ngữ tiếng Việt cho HS tiểu học dân tộc thiểu số giúp các em mạnh dạn, tự tin khi đến trường, học tập và giao tiếp với thầy cô, bạn bè, xóa bỏ rào cản ngôn ngữ giữa học tiếng Việt và tiếng DTTS giúp HS yêu thích và sử dụng tiếng Việt thường xuyên trong mọi hoạt động giao tiếp.