Vai Trò, Tầm Quan Trọng Của Tạo Động Lực Làm Việc Vai Trò Của Tạo Động Lực Làm Việc


CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘNG LỰC VÀ TẠO ĐỘNG LỰC LÀM VIỆC CHO CÔNG CHỨC

1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Công chức

Khái niệm công chức gắn liền với sự ra đời công chức ở các nước tư bản phương Tây vào nửa cuối thế kỷ XIX, mỗi quốc gia có quan niệm và định nghĩa khác nhau về công chức.

Nền công vụ truyền thống Pháp quy định về công chức khá rõ: "Công chức là người được bổ nhiệm vào một công việc thường xuyên với thời gian làm việc trọn vẹn và được biên chế vào một ngạch trong thứ bậc của các cơ quan hành chính Nhà nước, các cơ quan ngoại biên hoặc các công sở Nhà nước" (Điều 2 Chương II Quy chế chung về công chức Nhà nước của Pháp năm 1994 ) hay khái niệm khác: "Công chức bao gồm toàn bộ những người được Nhà nước hoặc cộng đồng lãnh thổ (công xã, tỉnh, vùng) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên trong một công sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện và được biên chế vào một ngạch của nền hành chính công" theo đó công chức gồm 3 loại: công chức hành chính Nhà nước, công chức thuộc cộng đồng lãnh thổ và công chức trực thuộc các công sở tự quản.

Trung Quốc khái niệm về công chức: Công chức nhà nước là những người công tác trong cơ quan hành chính nhà nước các cấp, trừ nhân viên phục vụ. Công chức gồm hai loại:

- Công chức lãnh đạo là những người thừa hành quyền lực nhà nước. Các công chức này bổ nhiệm theo trình tự luật định, chịu sự điều hành của Hiến pháp, Điều lệ công chức và Luật tổ chức của chính quyền các cấp.

- Công chức nghiệp vụ là những người thi hành chế độ thường nhiệm, do cơ quan hành chính các cấp bổ nhiệm và quản lý căn cứ vào Điều lệ công chức. Họ chiếm tuyệt đại đa số trong công chức nhà nước, chịu trách nhiệm quán triệt, chấp hành các chính sách và pháp luật.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.


Tại Việt Nam, khái niệm công chức được hình thành khi có sự ra đời của nền hành chính Nhà nước và đã thay đồi nhiều lần. Tại điều 1, Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về quy chế công chức Việt Nam, thì công chức được hiểu là Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ quy định. Như vậy, phạm vi công chức chỉ xác định trong các cơ quan Chính phủ.

Tạo động lực làm việc cho công chức thuộc Sở Công thương tỉnh Khăm Muộn Lào - 3

Trước những đổi mới của đất nước và yêu cầu khách quan của thời kỳ đổi mới cần cải cách nền hành chính và chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức nhà nước Việt Nam đến năm 2008, Luật Cán bộ, công chức ra đời (có hiệu lực từ 01/01/2010) đây là một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước đến nay cắt nghĩa được rõ ràng hơn về khái niệm “công chức”. Trong luật Cán bộ, công chức, khái niệm công chức có phạm vi rộng hơn. Theo đó, “ Công chức là công dân Việt nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.

Cụ thể tại Nghị định số 06/2010/NĐ-CP, ngày 25/01/2010, tại Điều 2 quy định những người là công chức và thông tư số 08/2011/TT- BNV, ngày 02/06/2011 hướng dẫn một số điều của nghị định 06/2010/NĐ-CP ngày 25/01/2010 và theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và viên chức số 52/2019/QH14 của Việt Nam của Chính phủ quy định “ Công chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân

10


sách Nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”. .[1]

Nước CHDCND Lào, sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 đã thực hiện chế độ công chức trên phạm vi cả nước theo đó, tất cả những người làm việc trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp Nhà nước, nông trường, lầm trường và lực lượng vũ trang đều được gọi chung trong một cụm từ “ cán bộ, công nhân viên chức Nhà nước”.

Theo Nghị định số 82/2003/NĐ-CP của Chính phủ nược CHDCND Lào đã đưa ra khái niệm về công chức: “Công chức nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào là người công dân Lào được biên chế và bổ nhiệm làm việc thường xuyên trong các cơ quan Trung ương, địa phương hoặc được ủy nhiệm làm việc ở các cơ quan đại diện nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào ở nước ngoài được hưởng lương và tiền trợ cấp từ ngân sách Nhà nước” .[2]

Chuyển sang thời kỳ đổi mới nước CHDCND Lào, khái niệm về công chức được quy định theo luật Cán bộ, công chức số 74/QH ngày 18/12/2015 về cán bộ, công chức nước CHDCND Lào. Trong luật chỉ rõ “ Công dân Lào được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một chức vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp gọi là công chức Nhà nước” .[15]

Trước yêu cầu sự nghiệp xây dựng đất nước Lào trong điều kiện mới, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ công chức chính quy, hiện đại. Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng NDCM Lào trong văn bản ngày 18/01/2016 chỉ rõ. Ở nước CHDCND Lào, sự hình thành đội ngũ cán bộ, công chức có đặc điểm khác các nước. Cán bộ làm việc trong các cơ quan Nhà nước, Đảng, đoàn thể là một khối thống nhất trong hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Vì vậy, cần có một pháp lệnh có phạm vi điều chỉnh chung đối với cán bộ trong toàn thể hệ thống chính trị bao gồm: công chức nhà nước (trong đó có công chức làm việc ở cơ quan quân đội, an ninh…), cán bộ làm việc chuyên trách ở cơ quan Đảng, đoàn thể.

Công chức Lào là “ công dân Lào trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công


việc thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, những người làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân và công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp và công nhân quốc phòng”.

Theo luật cán bộ, công chức số 74/QH, ngày 18/12/2015 đã quy định: cán bộ, công chức là công dân Lào trong biên chế bao gồm:

- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, thủ đô, ở tỉnh, ở huyện.

- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.

- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan Nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.

- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch viên chức hoặc giao một nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các đơn vị sự nghiệp Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.

- Thẩm phán Tòa án nhân dân, kiểm sát viên, viện kiểm sát nhân dân.

- Những người được quyền tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.

- Những người do bầu cử để đảm nhiệm vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực, Hội đồng nhân dân, UBND, Bí thư, phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội thuộc huyện, thị xã.

Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp huyện.

Khái niệm cán bộ, công chức được phân biệt rõ ràng như:


Cán bộ là công dân Lào, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở Thủ đô, ở tỉnh, ở huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

Công chức là công dân Lào được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Nhà nước Công hòa Dân chủ Nhân dân Lào, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quan nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng, trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, tổ chức chính trị- xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. [5].

Tóm lại, qua phân tích có thể nhận thấy mỗi quốc gia đều có những khái niệm riêng để xác định những người là công chức, tuy nhiên hầu hết công chức đều mang một số đặc điểm như sau: là công dân nước đó, được tuyển dụng giữ một công việc thường xuyên trong cơ quan hành chính Nhà nước, được bổ nhiệm vào một ngạch nhất định, làm việc trong công sở và chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, trong biên chế và hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước.

Như vậy, theo quy định pháp luật hiện hành của nước CHDCND Lào cán bộ, công chức đều dùng để chỉ những người là công dân Lào trong biên chế của các cơ quan nhà nước nói chung. Và tiêu chí để phân định giữa cán bộ và công chức là dựa vào cơ chế hình thành cán bộ được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ, còn công chức được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh.


1.1.2. Động lực và tạo động lực làm việc

1.1.2.1. Động lực

Động lực được hiểu là sự khát khao, tự nguyện của người lao động để tăng cường, nỗ lực nhằm hướng tới việc đạt được các mục tiêu, kết quả nào đó” [7, tr.134]. “Động lực của người lao động là những nhân tố bên trong kích thích con người

nỗ lực làm việc trong điều kiện cho phép tạo ra năng suất, hiệu suất cao. Biểu hiện của động lực là sự sẵn sàng nỗ lực, say mê làm việc nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức cũng như của bản thân người lao động” [18, tr.85].

Mỗi cá nhân đều mong muốn được làm việc, được khẳng định bản thân, được thăng tiến trong công việc và có mức thu nhập đảm bảo cuộc sống. Và động lực chính là những nhân tố kích thích con người nỗ lực làm việc tạo ra năng suất, hiệu quả. Động lực sẽ thúc đẩy cá nhân phát huy được sức mạnh to lớn, tiềm tàng bên trong, vượt qua được thách thức, khó khăn để hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, động lực làm việc của mỗi cá nhân biểu hiện bằng thái độ, tinh thần làm việc tích cực còn góp phần tạo ra môi trường làm việc hiệu quả, kích thích nhu cầu làm việc của những người xung quanh. Ở những vị trí khác nhau, đặc điểm tâm lý khác nhau, trong những thời điểm khác nhau, mỗi người sẽ có những động lực làm việc khác nhau và cần những yếu tố tạo động lực phù hợp.

Từ lý luận nêu trên, theo tác giả động lực làm việc của cá nhân chính là sự khát khao và tự nguyện làm việc của bản thân nhằm phát huy mọi nỗ lực để hướng bản thân đạt được mục tiêu của cá nhân và mục tiêu của tổ chức đã đặt ra.

1.1.2.2. Tạo động lực

Tạo động lực được hiểu là hệ thống các chính sách, biện pháp, thủ thuật quản lý tác động đến người lao động nhằm làm cho người lao động có động lực trong công việc. Tạo động lực cho người lao động là trách nhiệm và mục tiêu của quản lý. Một khi người lao động có động lực làm việc, thì sẽ tạo ra khả năng tiềm năng nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công tác” [18, tr.87].

Mỗi người làm việc đều có những lý do khác nhau. Người lao động đều làm việc bởi họ có thể có được những thứ mà họ cần từ công việc. Những thứ mà người lao động dành được từ công việc có ảnh hưởng tới tinh thần, nhuệ khí, động lực làm


việc và chất lượng cuộc sống của họ. Điều mà Nhà quản lý cần làm là sử dụng các động lực để thúc đẩy mọi người thực hiện nhiệm vụ một cách có hiệu quả cho doanh nghiệp nơi họ làm việc. Một tổ chức muốn làm việc có hiệu quả và thành công thì cần phải kích thích và thỏa mãn được sự nỗ lực của mọi người để đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả.

Tạo động lực cho người lao động là việc dùng những biện pháp nhất định để kích thích người lao động làm việc một cách tự nguyện, nhiệt tình, hăng say và có hiệu quả hơn trong công việc.

Vì vậy, tạo động lực cho người lao động là việc dùng những biện pháp nhất định để kích thích người lao động làm việc một cách tự nguyện, nhiệt tình, hăng say và có hiệu quả hơn trong công việc. Đây cũng là trách nhiệm và là mục tiêu của quản lý.

Tạo động lực cũng chính là tạo ra sự hấp dẫn của công việc, của kết quả thực hiện công việc, của tiền lương, tiền thưởng… sự hấp dẫn càng lớn thì lợi ích đem lại cho người lao động càng lớn, khi đó người lao động càng hăng say làm việc để có thể đạt được lợi ích đó. Khi người lao động cảm thấy sự hấp dẫn trong công việc, họ làm việc một cách tự nguyện, nhiệt tình do đó các nhà quản lý cần quan tâm tạo động lực cho người lao động để hướng hành vi của người lao động theo một chiều hướng quỹ đạo nhất định.

Như vậy tạo động lực có thể được hiểu là những hoạt động có tính chất khuyến khích, động viên nhằm tác động vào nhu cầu của người lao động để tạo nên sự chuyển biến trong hành vi của họ hướng theo mục tiêu mà tổ chức mong muốn. Tạo động lực làm nảy sinh động lực trong tổ chức. Vì vậy, nhà lãnh đạo, quản lý muốn duy trì và phát triển tổ chức thì phải vận dụng các chính sách, biện pháp, công cụ quản lý phù hợp tác động đến người lao động để họ hăng say làm việc, phát huy tính sáng tạo hoàn thành mục tiêu của tổ chức. Vấn đề quan trọng của tạo động lực chính là hiểu, xác định được nhu cầu của người lao động từ đó có biện pháp kích thích, tạo ra động lực cho người lao động giúp họ hăng say, nỗ lực trong công tác.

1.1.2.3. Vai trò, tầm quan trọng của tạo động lực làm việc Vai trò của tạo động lực làm việc


Động lực thúc đẩy hành vi ở hai góc độ trái ngược nhau là tích cực và chưa tích cực. Người lao động có động lực tích cực thì sẽ tạo được một tam tư làm việc tốt, sáng tạo, vượt khó… đồng thời cũng góp phần làm cho tổ chức ngày càng vững mạnh hơn. Ngược lại, công chức thiếu động lực việc tích cực sẽ nảy sinh tâm lý chán nản, mâu thuẫn và có thể xẩy ra xung đột trong bản thân và với những đồng nghiệp xung quanh ảnh hưởng tới tâm lý và hiệu quả hoạt động của cá nhân họ và đơn vị, cơ quan.

Người lao động có động lực làm việc tích cực sẽ giúp họ tạo dựng vị thế cho bản thân trong tổ chức, có nhiều cơ hội thăng tiến, có thể có những thu nhập ngoài lương một cách chính đáng…Đồng thời, theo cơ chế lan truyền tâm lý động lực làm việc tích cực của một người có thể lây lan sang những người xung quanh và từ đó tạo nên một trạng thái tâm lý chung trong tổ chức.

Tâm quan trọng tạo động lực làm việc

Động lực của công chức là mức độ năng lượng, sự sáng tạo mà công chức mang lại cho công việc của họ. Động lực của công chức còn được hiểu là mức độ cam kết của công chức đối với công việc họ đang làm, là thước đo cho sự gắn bó với mục tiêu của đơn vị. Động lực chính là phương thức thúc đẩy, nâng cao tinh thần làm việc của công chức. Một người công chức tràn trề động lực sẽ luôn tập trung, làm việc hiệu quả hơn, do vậy chất lượng công việc và năng suất làm việc cũng được gia tăng. Chính vì lẽ đó, việc tìm cách thúc đẩy động lực cho công chức luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo, nhà quản lý đơn vị.

1.2. Nội dung tạo động lực làm việc cho công chức

1.2.1. Xác định mục tiêu tạo động lực làm việc

Khi đặt ra mục tiêu, phải đảm bảo mục tiêu này có thể khuyến khích công chức thực hiện vì nó rất quan trọng với bản thân người lao động và tạo được giá trị khi hoàn thành. Nếu bạn không hào hứng với kết quả, hoặc mục tiêu không thích hợp với mục tiêu lớn hơn thì bạn sẽ bỏ ít công sức để thực hiện và mục tiêu khó có khả năng hoàn thành. Do đó động lực chính là chìa khóa để đạt được mục tiêu.

Căn cứ vào mục tiêu phát triển chung của tổ chức để tiến hành xác định các mục tiêu trong hoạt động quản lý nguồn nhân lực, việc xác định mục tiêu của tạo động lực làm việc là một trong những khâu quan trọng của công tác này. Mục tiêu của tạo

Xem tất cả 126 trang.

Ngày đăng: 17/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí