20, do tăng trưởng nền công nghiệp hóa, nhiều tác giả Keller và Viteles năm 1937, Watts năm 1966; năm 1974 Super đề cập đến tác phẩm Parson ở Hoa Kì trong những năm 1900, tác phẩm của Lahy trong lựa chọn nhân sự ở Pháp năm 1910; nỗ lực của Gemelli trong lựa chọn nhân sự ở Ý năm 1912, và sự tập trung vào hướng nghiệp của Christianen ở Bỉ năm 1911, 1912 và những tác phẩm tiên phong ở Genneva và London năm 1914 và 1915 do Reuchlin miêu tả những nỗ lực ban đầu trong thiết lập tư vấn và hướng nghiệp ở Hoa Kì và Châu Âu (Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, 2012). Ở các nước Châu Á đều chú trọng đến việc tổ chức giáo dục nghề sau trung học cơ sở, hầu hết các nước phân loại học sinh theo hai hướng chính là một bộ phận tiếp tục học lên THPT, một bộ phận chuyển sang học nghề, đó là trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề. Ở Nhật Bản, Hàn Quốc đã sớm quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa học vấn văn hóa phổ thông với kiến thức và kỷ năng lao động nghề nghiệp ở tất cả các bậc học. Ở Nhật Bản, có khoảng 27,9% các trường THPT vừa học văn hóa phổ thông vừa học các môn kỹ thuật thuộc nhiều lĩnh vực cơ khí, ngư nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ….Sau khi tốt nghiệp cấp 2 có đến 94% học sinh vào cấp 3, trong đó có 70% theo học các loại hình trường phổ thông cơ bản và 30% học sinh theo hướng học nghề. Ở Hàn Quốc, giảng dạy – kỹ thuật lao động là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chương trình giáo dục ở các loại hình trường phổ thông, hết cấp 2 học sinh theo hai hướng chính là phổ thông và chuyên nghiệp, trong đó ưu tiên các trường kỹ thuật nghề nghiệp tuyển sinh trước rồi mới chọn học sinh theo luồng phổ thông. Ở Hồng Kong, GDHN thông qua chương trình kĩ năng sống, giáo dục nghề bao gồm các chủ đề: kế hoạch nghề, tìm việc, thiết lập mục tiêu nghề. Ở Philippine, giảng dạy tích hợp các môn khoa học công nghệ vào THPT, sau trung học cơ sở, nhánh giáo dục nghề nghiệp có 2 năm học nghề, 2 năm sau chọn nghề nhất định. Ở Malaysia, sau khi học THCS học sinh được phân chia 3 hướng chính: Nhóm giáo dục kĩ thuật công nghệ
cơ khí dân dụng; nhóm giáo dục phổ thông dạy các môn văn hóa; nhóm giáo dục nghề nghiệp giảng dạy lí thuyết, thực hành nghề cơ khí, ô tô, hàn, điện, điện tử... (Nguyễn Văn Lê - Hà Thế Truyền, 2004).
Như vậy, trên thế giới hầu hết các nước đều bố trí hệ thống giáo dục kĩ thuật và dạy nghề. Hầu như mọi quốc gia trên thế giới đều coi nhân tố con người, trong đó GDNN góp phần hết sức to lớn trong việc phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Các cơ sở GDNN đào tạo, bồi dưỡng và cung cấp một lực lượng lao động đông đảo đã qua đào tạo, góp phần làm cho cơ cấu lao động xã hội, cả về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề và cơ cấu vùng miền phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội (KT-XH) của đất nước. Giáo dục thường xuyên, GDHN có vai trò quan trọng giúp con người có điều kiện hướng đến đào tạo lao động tri thức, tự đào tạo suốt đời. Nhà trường phải thay khẩu hiệu “Đào tạo một lần cho một đời người” bằng khẩu hiệu “Đào tạo suốt đời cho một đời người” (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2013).
1.1.2. Những nghiên cứu ở trong nước
Ở Việt Nam, Bác Hồ đã sớm chỉ ra: Nhà trường xã hội chủ nghĩa là nhà trường: Học đi với lao động, lý luận đi với thực hành; cần cù đi với tiết kiệm (Nguyễn Thị Minh Hòa, 2007). Từ năm 1977 đến năm 1980 các tác giả Phạm Minh Hạc, Phạm Tất Dong - Viện khoa học giáo dục tiến hành nghiên cứu tại huyện Thanh Oai tỉnh Hà Sơn Bình, trường phổ thông cơ sở (PTCS) Bắc Lí tỉnh Hà Nam Ninh và một số trường phổ thông ở Hà Nội. Bộ Giáo dục đã cho sửa chữa, bổ sung và ban hành chương trình sinh hoạt hướng nghiệp tạm thời cùng với tài liệu sinh hoạt hướng nghiệp của lớp cuối cấp PTCS và các lớp phổ thông trung học (PTTH) để các trường thực hiện, rút kinh nghiệm.
Năm học 1980-1981, đồng chí Trưởng ban khoa giáo trung ương Bùi Thanh Khiết và Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thị Bình đi thăm các cơ sở thực nghiệm, thấy có kết quả tốt đã cho phép nhóm thực nghiệm lập đề án trình Ủy
ban cải cách giáo dục trung ương để mở rộng, đưa công tác hướng nghiệp vào các trường phổ thông.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lí hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường trung học phổ thông tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long - 1
- Quản lí hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường trung học phổ thông tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long - 2
- Hoạt Động Giáo Dục Hướng Nghiệp
- Quản Lí Hoạt Động Giáo Dục Hướng Nghiệp
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quá Trình Quản Lí Gdhn
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Dựa trên các công trình nghiên cứu, các tác giả Phạm Tất Dong, Phạm Huy Thụ, Nguyễn Trọng Bảo, Nguyễn Thế Quảng, Đoàn Chi đã chung sức xây dựng đề án “Hướng nghiệp và sử dụng hợp lý học sinh ra trường”.
Ngày 19 tháng 3 năm 1981, Hội đồng Chính phủ đã ra quyết định số 126/CP về Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng hợp lý học sinh PTCS và PTTH sau khi tốt nghiệp ra trường. Quyết định nêu rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ công tác hướng nghiệp, phân công cụ thể chính quyền các cấp, các ngành kinh tế, văn hóa từ trung ương đến địa phương có nhiệm vụ tạo mọi điều kiện thuận lợi trực tiếp giúp đỡ các trường phổ thông trong việc đào tạo, sử dụng hợp lí và tiếp tục bồi dưỡng học sinh phổ thông sau khi ra trường. Ban hành kèm Quyết định 126/CP của Chính phủ là Thông tư 31-TT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thực hiện Quyết định nêu trên. Nội dung Thông tư nêu rõ mục đích, nhiệm vụ và hình thức hướng nghiệp cho học sinh trong nhà trường phổ thông, đồng thời phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên trong các trường phổ thông, cho dù đang đảm nhận công tác nào đều phải hoàn thành nhiệm vụ được giao trong công tác GDHN.
Năm 1984, khi sơ kết 3 năm thực hiện Quyết định số 126/CP của Hội đồng Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nêu vấn đề: tiếp theo hướng nghiệp phải dạy nghề cho học sinh phổ thông nếu không tiếp tục học lên, học sinh ra đời dễ tạo công ăn việc làm, sẵn sàng tham gia lao động sản xuất ở địa phương. Chủ trương này đã được đưa ra toàn ngành thảo luận và được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam (1986): Trường phổ thông phải chuyển mạnh theo hướng dạy kiến thức phổ thông cơ bản, lao động, kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và dạy nghề.
Từ năm 1987-1990 do sáp nhập Bộ, phải thu gọn đầu mối. Ban giáo
dục hướng nghiệp sáp nhập vào Vụ Giáo dục phổ thông, không còn đủ sức mạnh để triển khai các hoạt động hướng nghiệp, hậu quả là phong trào hướng nghiệp tại các địa phương sa sút nghiêm trọng, công tác tư vấn nghề tạm thời bị dừng lại.
Tháng 3 năm 1991, trước yêu cầu của thực tiễn, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Hồng Quân cho khôi phục đầu mối tổ chức chỉ đạo hoạt động lao động-hướng nghiệp của toàn ngành, thành lập Trung tâm Lao động - Hướng nghiệp trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhờ quyết định đúng đắn này, chỉ 1 năm sau, Trung tâm Lao động-Hướng nghiệp đã khôi phục được công tác hướng nghiệp cho học sinh phổ thông. Gần đây nhất, trong công trình Khoa học – Công nghệ cấp nhà nước KX-05-09, các tác giả Nguyễn Văn Lê, Hà Thế Truyền, Bùi Văn Quân đã công bố các công trình: “ Một số vấn đề về hướng nghiệp cho học sinh phổ thông” và “ Một số kinh nghiệm về giáo dục phổ thông và hướng nghiệp trên thế giới”. Nhóm tác giả: Trần Xuân Xước, Tô Bá Trọng, Nguyễn Minh Đường, Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Viết Sự, Phạm Huy Thụ, Đoàn Chi đã đưa ra các khái niệm, số liệu, kinh nghiệm giáo dục kỹ thuật và dạy nghề cho học sinh phổ thông, kinh nghiệm tổ chức hướng nghiệp, lao động sản xuất cho học sinh trường phổ thông trung học và trung tâm Kỹ thuật tổng hợp – Hướng nghiệp. Theo đó, nhiều biện pháp và kinh nghiệm giáo dục phổ thông và hướng nghiệp trên thế giới đã được tổng thuật, phân tích nhằm góp phần hiện thực hóa mục tiêu hướng nghiệp cho học sinh THCS và THPT ở Việt Nam.
Các công trình trên cho thấy rằng, các nhà nghiên cứu giáo dục Việt Nam rất quan tâm đến công tác hướng nghiệp, lao động sản xuất, và dạy kỹ thuật nghề nghiệp cho học sinh phổ thông. Nhưng thực tiễn công tác GDHN hiện nay phát triển còn chậm, việc đánh giá chỉ mới dựa trên tỷ lệ khá giỏi của kỳ thi nghề, chưa đánh giá đầy đủ và chưa đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới. Mặc dù, giáo dục hướng nghề nghiệp ở Việt Nam một số năm vừa qua
đã từng bước được củng cố và phát triển về quy mô và cơ cấu đào tạo. Tuy nhiên, so với yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp Công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH – HĐH) đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa cũng như hội nhập quốc tế. Đòi hỏi cấp bách hiện nay đối với GDNN là bên cạnh việc tăng quy mô cùng với việc đảm bảo cơ cấu hợp lý, phải đảm bảo có chất lượng và hiệu quả đào tạo đáp ứng được yêu cầu thực tế sử dụng lao động đã qua đào tạo Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) và dạy nghề.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Hướng nghiệp và hoạt động giáo dục hướng nghiệp
* Hướng nghiệp
- Hướng nghiệp trong giáo dục là hệ thống các biện pháp tiến hành trong và ngoài nhà trường để giúp học sinh có kiến thức về nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội. (Điều 3- Nghị định số 75/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều Luật Giáo dục).
- Một số nghiên cứu có khái niệm về hướng nghiệp hoặc xét hướng nghiệp ở một vài bình diện khác nhau như: Hướng nghiệp là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục học, y học, xã hội học, kinh tế học,… nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. Trên bình diện trường phổ thông: Trong trường phổ thông, hướng nghiệp là một hình thức hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy, hướng nghiệp được coi như là công việc của tập thể giáo viên, tập thể sư phạm, có mục đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản
thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội. Như vậy, hướng nghiệp trong trường phổ thông được thể hiện như một hệ thống tác động sư phạm nhằm làm cho các em học sinh chọn được nghề một cách hợp lý. Trên bình diện xã hội: Toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp, công trường, nông trường…, các cơ quan quản lý kinh tế và quản lý nhà nước, các cơ quan của những đoàn thể chính trị, xã hội … đều cần đến những người có năng lực và phẩm chất nhân cách phù hợp. Để chọn được những người theo đúng những tiêu chuẩn đã định theo những chỉ số khách quan, những cơ quan tổ chức nói trên có nhiệm vụ làm cho thế hệ trẻ hiểu được nội dung, tính chất, đặc điểm, điều kiện…công tác của mình, giúp cho họ tìm hiểu những nghề nghiệp, chuyên môn mà mình cần tuyển chọn. Cuối cùng, những cơ quan, cơ sở sản xuất phải tiến hành lựa chọn người trên cơ sở nguyện vọng và dự định của họ.
- Thực chất của hướng nghiệp không phải là sự quyết định nghề mà là giúp các em có được những hiểu biết cần thiết về bản thân, về thế giới nghề nghiệp xung quanh, về những yếu tố ảnh hưởng tác động tới bản thân trong việc chọn nghề để lựa chọn nghề phù hợp và giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa cá nhân với nghề, giữa cá nhân với xã hội. Hướng nghiệp là giáo dục sự lựa chọn nghề một cách có chủ đích nhằm đảm bảo cho các em hạnh phúc trong lao động nghề nghiệp, lao động đạt hiệu suất cao và cống hiến được nhiều nhất cho xã hội. Hướng nghiệp không chỉ được thực hiện trong nhà trường bởi các thầy, cô giáo mà hướng nghiệp được tiến hành tại gia đình và cộng đồng với sự tác động, hỗ trợ của các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội, đặc biệt là cha mẹ học sinh.
* Giáo dục hướng nghiệp
- GDHN là một hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội nhằm chuẩn bị cho học sinh phổ thông là sự tác động của các nhà giáo dục nhằm làm cho học sinh có hứng thú và động cơ nghề nghiệp đúng đắn, có lý tưởng nghề nghiệp trong sáng, có thái độ đúng đối với lao động,
sẵn sàng đi vào những nghề, những nơi cần lao động trẻ tuổi, có văn hóa.
- GDHN là một bộ phận của giáo dục toàn diện, thông qua giáo dục hướng nghiệp mỗi học sinh có sự hiểu biết về tính chất đòi hỏi ngành nghề mà mình hướng tới, biết phân tích thị trường hoạt động và sự đào tạo nghề tương ứng tự sàng lọc những người tư vấn để tự mình tháo gỡ vướng mắc hoặc rèn luyện bản thân. Từ đó mỗi học sinh tự xác định được đâu là nghề nghiệp phù hợp hoặc không phù hợp.
* Hoạt động giáo dục hướng nghiệp
Hoạt động giáo dục hướng nghiệp (HĐGDHN) (trước đây gọi là Sinh hoạt hướng nghiệp) được chính thức đưa đưa vào kế hoạch dạy học của các trường THCS và THPT với tư cách là một hoạt động giáo dục, có chương trình dạy học, bao gồm mục tiêu, nội dung, chuẩn kiến thức, kĩ năng và thái độ cho từng chủ đề hướng nghiệp của từng khối, lớp. Trước năm học 2009- 2010, thời lượng dành cho HĐGDHN ở lớp 9 là 36 tiết/ năm học (4 tiết/ tháng); ở lớp 10, lớp lớp 12 là 27 tiết/ năm học/lớp (3 tiết/ tháng/ lớp). Nhưng từ năm học 2009-2010 trở đi, thời lượng dành cho HĐGDHN rút xuống còn 9 tiết/năm học/lớp do có sự tích hợp một số chủ đề hướng nghiệp vào HĐNGLL và môn Công nghệ lớp 10.
1.2.2. Quản lý và quản lý giáo dục hướng nghiệp
* Quản lý
- Quản lý là thiết kế và duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong nhóm có thể hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã định;
- Quản lý là tập hợp các hoạt động (bao gồm lập ra kế hoạch, ra quyết định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra) với các nguồn lực của tổ chức (con người, tài chính, vật chất và thông tin) nhằm mục đích đạt các mục tiêu của tổ chức hiệu quả nhất.
- Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến
tập thể những người lao động nói chung (khách thể quản lý, nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến).
- Quản lý là quá trình điều khiển, là chức năng của những hệ có tổ chức với bản chất khác nhau.
- Quản lý là tác động hợp quy luật khách quan làm cho hệ vận động, vận hành và phát triển.
- Quản lý với tư cách là một hoạt động thì quản lý là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... bằng hệ thống các luật lệ, các chính sách, các nguyên tắc, các phương pháp cụ thể nhằm tạo môi trường và điều kiện cho sự phát triển đối tượng.
- Quản lý với tư cách là một quá trình trong đó các chức năng quản lý được thực hiện trong sự tương tác lẫn nhau thì “quản lý là một quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các công việc của các thành viên thuộc một hệ thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích xác định”.
- Quản lý là quá trình tiến hành những hoạt động khai thác, lựa chọn, tổ chức và thực hiện các nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lý theo kế hoạch chủ động và phù hợp với quy luật khách quan để gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lý nhằm tạo ra sự thay đổi hay tạo ra hiệu quả cần thiết vì sự tồn tại (duy trì), sự ổn định và phát triển của tổ chức trong một môi trường luôn biến động.
- Như vậy, có định nghĩa khác nhau về khái niệm quản lý. Nhưng bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người quản lý đến người bị quản lý nhằm đạt mục tiêu chung.
* Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý đến khách thể, đối tượng quản lý trong hoạt động giáo dục. Quản lý giáo dục là