Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Quá Trình Quản Lí Gdhn


sinh.

+ Kết quả điều khiển: Sự sẵn sàng nghề nghiệp cho học sinh, cụ thể là

chuẩn bị cho học sinh có khả năng chọn nghề, trường nghề phù hợp với khả năng nguyện vọng của mình.

- Nội dung cơ bản của công tác GDHN hiện nay trong chương trình THPT gồm:

+ Từng bước giới thiệu cho học sinh các ngành nghề của địa phương và trong xã hội, làm cho học sinh hiểu rõ ý nghĩa của việc chọn nghề, trang bị cho học sinh kiến thức sơ bộ nhưng cần thiết về các nghề chủ yếu đối với đối tượng lao động, công cụ lao động, sản phẩm làm ra…. Các yêu cầu của nghề đối với lao động, yêu cầu về thái độ, phẩm chất, sức khỏe; triển vọng của từng nghề; chú ý quan tâm đến những nghề của xã hội và địa phương có triển vọng phát triển trong những năm sắp tới.

+ Tạo điều kiện tổ chức cho học sinh lao động, thực hành kĩ thuật, để học sinh được tập dượt, thử sức, làm bộc lộ ở học sinh những đặc điểm về nhân cách, tâm lý, sức khỏe, từ đó giúp học sinh định hướng tâm lý và lựa chọn ngành, nghề sau này.

+ Tổ chức hướng dẫn học sinh trong khâu chọn nghề dựa vào năng lực, sở trường của học sinh đã được bộc lộ có đối chiếu với sự phân công lao động xã hội, đồng thời điều chỉnh nguyện vọng khi cần thiết và giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện theo ngành, nghề đã chọn …. Qua các hoạt động GDHN trong nhà trường.

+ Tạo điều kiện và giúp đỡ bố trí công việc cho học sinh phù hợp với ngành, nghề mà học sinh đã chọn và đã được rèn luyện trong nhà trường. Để làm được điều này, lãnh đạo nhà trường phải kết hợp chặt chẽ với các ngành, các cơ sở sản xuất ngay từ khâu đầu tiên và cả quá trình hướng nghiệp cho học sinh. Trường học sẽ cung cấp cho các trường đào tạo, các cơ sở sản xuất về đặc điểm nhân cách của từng học sinh và tạo điều kiện tuyển sinh vào các


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.

trường chuyên nghiệp, tuyển chọn người lao động được thuận lợi, chính xác và phù hợp. Nội dung chương trình GDHN hiện nay cần đảm bảo các yêu cầu sau:

. Đảm bảo tính khoa học và tính hiện đại

Quản lí hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh các trường trung học phổ thông tại thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long - 6

. Đảm bảo tính liên thông, kế thừa và đồng bộ các kiến thức trong chương trình.

. Các kiến thức về thế giới nghề nghiệp không trùng lặp mà được nâng

cao.


* Quản lí các phương pháp, hình thức tổ chức GDHN

Quản lý phương pháp và các hình thức tổ chức hoạt động GDHN cho

học sinh. Trong chương trình hoạt động GDHN, quan điểm xây dựng chương trình coi học sinh là chủ thể của hoạt động chọn nghề và tổ chức các hoạt động cho học sinh được thể hiện rõ. Đó là hoạt động học tập theo các chủ thể của hướng nghiệp, hoạt động thực hành tìm hiểu nghề, hoạt động giáo dục nghề được thể hiện ở chỗ: Thầy tổ chức cho các em giao lưu với cơ sở sản xuất, tổ chức tham quan, tổ chức các buổi hội thảo tranh luận của lớp, ở nhóm…Như vậy thầy đóng vai trò là người tổ chức, định hướng, điều khiển các hoạt động của học sinh, còn học sinh phải tự mình điều tra thu thập các thông tin về nghề, trường đào tạo, sự phát triển kinh tế của địa phương, cơ sở sản xuất.

* Quản lí hoạt động GDHN của giáo viên và các lực lượng giáo dục

khác

Đội ngũ tham gia công tác GDHN là chủ thể của quá trình hoạt động,

bao gồm nhiều lực lượng tham gia, trong đó giữ vai trò quan trọng hơn hết là đội ngũ giáo viên, vì đội ngũ giáo viên giữ vai trò quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn vinh. Trong nền giáo dục hiện đại, việc quản lý và đào tạo giáo viên không những chỉ yêu cầu dừng lại ở chỗ vững chuyên môn là đủ mà còn phải yêu cầu được đào tạo một lượng tri thức tương đối rộng, học sâu


một số môn chuyên ngành, bên cạnh đó phải được trang bị thêm một số môn học khác để phục vụ việc giáo dục toàn diện; được huấn luyện phương pháp và kĩ năng dạy học một cách chu đáo và thường xuyên được trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp, thường xuyên được rèn luyện nhân cách, tăng cường ý thức của người giáo viên, từ đó tạo sự ảnh hưởng của nhân cách giáo viên đến học sinh.

Để thực hiện tốt công tác GDHN, trong nhà trường phổ thông hiện nay nhất thiết phải xây dựng được lực lượng chuyên trách, hàng năm nhà trường cần có kế hoạch cử lực lượng này tham gia các chương trình tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ do ngành tổ chức.

Tham gia vào công tác GDHN còn có các tổ chức đoàn thể như Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp thanh niên Việt nam. Đây là lực lượng có số lượng đông đảo và hùng hậu trong các trường phổ thông, hoạt động của các tổ chức này phần lớn gắn liền với các hoạt động phong trào, chính vì vậy nhà trường cần tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức này hoạt động, tuy nhiên phải xây dựng được qui chế phối hợp để đưa được các nội dung của công tác GDHN vào trong chương trình hoạt động của họ.

Ngoài ra do GDHN là một hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà trường, gia đình, xã hội, vì vậy chủ thể tham gia công tác GDHN còn có nhiều lực lượng khác như Hội cha mẹ học sinh, và các tổ chức xã hội khác. Nhà trường phải quan tâm đến việc xây dựng mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các tổ chức này để đem lại hiệu quả cao trong hiệu quả giáo dục nói chung của nhà trường, trong đó có công tác GDHN.

* Quản lí hoạt động hướng nghiệp của học sinh

Là quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện của học sinh trong quá trình học tập thông qua việc kiểm tra đánh giá. Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình giáo dục.

Nội dung chương trình GDHN đã được xây dựng thành nhưng chủ đề


cụ thể trong từng tháng của mỗi năm học. Mặc dù hiện nay việc kiểm tra đánh giá kết quả hướng nghiệp đối với học sinh chưa được cụ thể hóa thành điểm số để tham gia vào việc đánh giá kết quả giáo dục các mặt, nhưng để GDHN ngày càng có ý nghĩa thiết thực thì cuối mỗi chủ đề sinh hoạt hướng nghiệp, giáo viên cần đánh giá quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh nhằm tạo cơ sở cho các quyết định sư phạm của giáo viên và nhà trường, cho bản thân học sinh để các em học tập ngày càng tiến bộ hơn. Đồng thời qua đó nhà trường cũng đánh giá được hiệu quả hoạt động GDHN diễn ra trong nhà trường như thế nào.

* Quản lí các điều kiện phục vụ hoạt động GDHN

Các điều kiện phục vụ cho quá trình dạy học – giáo dục nói chung gồm nhiều loại, chung qui lại đó là cơ sở vật chất thiết bị dạy học và nguồn tài chính, trong đó cơ sở vật chất và thiết bị dạy học là phương tiện lao động sư phạm của các nhà giáo dục và học sinh, nó là một trong những điều kiện thiết yếu để tiến hành quá trình dạy học - giáo dục trong nhà trường; thiếu điều kiện này thì quá trình đó không thể diễn ra hoặc diễn ra ở dạng không hoàn thiện.

Tuy nhiên, cơ sở vật chất - thiết bị dạy học chỉ phát huy được tác dụng, nghĩa là làm cho quá trình giáo dục diễn ra có hiệu quả, nếu như nó thực sự trở thành một nhân tố của quá trình giáo dục. Là một nhân tố của quá trình giáo dục thì cơ sở vật chất – thiết bị dạy học phải phù hợp với các nhân tố khác như: mục đích, nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục. Muốn GDHN đạt hiệu quả cao nhà trường vừa kết hợp việc tận dụng nguồn cơ sở vật chất – thiết bị dạy học sẵn có với việc lập kế hoạch trang bị mua sắm thêm cũng như các biện pháp bảo quản các thiết bị để sử dụng có hiệu quả bền vững.

GDHN trong nhà trường phổ thông đòi hỏi phải chuẩn bị cho học sinh


có một tiềm năng nghề nghiệp để khi học xong phổ thông các em có thể sẵn sàng tham gia vào thị trường việc làm, đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước. Tiềm năng nghề nghiệp là một phức hợp các năng lực, phẩm chất và điều kiện giúp một cá nhân vượt qua những rào cản tiềm ẩn làm hạn chế khả năng được tuyển dụng ngành nghề. Các tiềm năng nghề nghiệp gồm:

Các năng lực cốt yếu (Giao tiếp, tính toán, suy luận logic, giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, thích ứng, năng lực ứng phó, tự tin, kỹ luật tự giác, sắp xếp thời gian).

Năng lực thoát khỏi các rào cản (sức khỏe đáp ứng nghề nghiệp, kiềm chế sự lo âu, bực tức) năng lực sử dụng các nguồn lực xã hội (các kĩ năng xã hội, hướng tới người khác, động cơ học tập, động cơ nghề nghiệp, động cơ thành đạt, nhu cầu địa vị).

1.4.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình quản lí GDHN‌

- Thị trường lao động: Các yếu tố của thị trường lao động như dân số, tiền lương, tuyển dụng, nhu cầu thị trường, chính sách cho người lao động...là các yếu tố chủ yếu tác động tới tạo nguồn nhân lực. Người lao động nếu được trả công theo chất lượng vả hiệu quả lao động sẽ khuyến khích học sinh học tập, rèn luyện để nâng cao kỹ năng, kiến thức.

- Giáo dục đào tạo: Phát triển nguồn nhân lực gắn liền với giáo dục và đào tạo. Với quan niệm đầu tư cho giáo dục là đầu tư có lợi nhất, các quốc gia trên thế giới đều có sự thay đổi trong chiến lược đầu tư cho giáo dục vì GDĐT là tạo ra nguồn lực quyết định sự phát triển của đất nước trong tương lai.

- Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên: Để GDHN có hiệu quả, vai trò quan trọng hơn hết là đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên. Trong nền giáo dục hiện đại, việc quản lý và đào tạo giáo viên không chỉ chăm lo về chuyên môn là đủ mà còn phải được yêu cầu đào tạo, trang bị thêm một số môn học


khác để phục vụ cho việc giáo dục toàn diện cho học sinh; được huấn luyện phương pháp và kỹ năng dạy học một cách chu đáo và thường xuyên được trao đổi với đồng nghiệp, thường xuyên được rèn luyện nhân cách, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp, phát triển tính cách, tăng cường ý thức của người giáo viên, từ đó tạo sự ảnh hưởng của nhân cách giáo viên đến học sinh.

+ Cán bộ quản lý: CBQL các trường THPT và các Trung tâm GDNN- GDTX cần quan tâm, phối hợp với các lực lượng đoàn thể như Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam đưa các nội dung hoạt động GDHN vào các tổ chức nầy, đây là tổ chức vừa có lực lượng đông đảo vừa có vai trò tác động tích cực và hiệu quả trong vận động tuyên truyền đến các đối tượng học sinh.

+ Giáo viên: Trong nhà trường phổ thông hiện nay nhất thiết phải xây dựng được lực lượng GV chuyên trách, hàng năm nhà trường cần có kế hoạch cử lực lượng nầy tham gia các chương trình tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ do ngành tổ chức.

- Phụ huynh học sinh (PHHS): Các bậc PHHS có vai trò quan trọng trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai cho các em, họ là cầu nối, là nhà tư vấn gần gủi nhất giúp các em chọn lựa hướng đi phù hợp, tuy vậy cũng không ít các bậc PHHS buộc con em mình phải thi vào đại học chuyên ngành theo ý thích mà ở đó không phù hợp với khả năng và sở trường các em. Bên cạnh thói quen áp đặt, không ít phụ huynh lại thiếu quan tâm chuyện định hướng cho con, không tư vấn cho con có sự lựa chọn phù hợp với hoàn cảnh gia đình và khả năng bản thân. Ngược lại có những phụ huynh đánh giá việc định hướng nghề nghiệp cho con cái một cách nghiêm túc. Chính cha mẹ mới biết rõ năng khiếu, sức học của con và hoàn cảnh kinh tế của gia đình, với những yếu tố đó mà tư vấn cho con chọn lựa cơ sở và quyết định hướng đi thích hợp nhất.

Từ trách nhiệm và hiểu biết, các bậc PHHS không thờ ơ hay để con


tùy tiện chọn hướng nghề nghiệp mà có sự phối hợp chặt chẽ từ phía bản thân các em và gia đình để có thể quyết định đúng đắn học ở trường nào, ngành nào phù hợp với nhu cầu xã hội và sở trường, hoàn cảnh của bản thân và gia đình.

- Các tổ chức xã hội: Ngoài nhà trường và gia đình, hai yếu tố quan trọng chi phối đến GDHN đó là chính quyền địa phương và các cơ sở sản xuất có vai trò quan trọng. Đối với chính quyền địa phương cần có kế hoạch ngắn hạn, dài hạn trong việc xây nguồn lực, đặc biệt là phải quan tâm đến công tác đào tạo nghề phục vụ cho việc phát triển kinh tế địa phương. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh cần tạo điều kiện cho học sinh tham quan, học tập, tư vấn cho các em chọn ngành nghề phù hợp với năng khiếu của mình. Thực hiện mối liên kết này giúp học sinh có điều kiện mở rộng thông tin về ngành nghề của xã hội và địa phương, yêu cầu của nghề đối với người lao động, quy trình đào tạo, những điều kiện tham gia lao động. Qua đó giúp học sinh hiểu biết các thông tin cần thiết về nghề nghiệp không chỉ về mặt lý thuyết mà ngay cả thực tiễn nữa. Sự liên kết giữa nhà trường và các đơn vị sản xuất là một trong những yếu tố góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động GDHN trong việc hình thành và phát triển năng khiếu nghề nghiệp của các em.


Tiểu kết chương 1‌


GDHN đã có một lịch sử trên 100 năm ở các nước tiên tiến trên thế giới và là một nhu cầu cấp bách không thể thiếu được. Đó là hướng nghiệp cho thế hệ trẻ, giúp các em chọn nghề phù hợp với khả năng tình hình kinh tế gia đình và cảm thấy hứng thú, tự tin đi vào thế giới nghề nghiệp.

Hoạt động GDHN đòi hỏi phải xác định rõ mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức cụ thể nhằm bảo đảm cung cấp đầy đủ kiến thức về các lĩnh vực, nhu cầu nghề nghiệp mà xã hội đang cần, thị trường lao động, những yêu cầu về phẩm chất và năng lực của mỗi người thích ứng với từng lĩnh vực nghề nghiệp.

Quản lí hoạt động GDHN là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lí nhằm tổ chức, điều khiển và quản lý hoạt động GDHN của những người làm công tác giáo dục nhằm giúp cho học sinh sau khi ra trường có thể chọn được nghề nghiệp phù hợp với năng lực bản thân, hoàn cảnh gia đình và điều kiện kinh tế xã hội của địa phương và đất nước. Đưa ra các biện pháp quản lí hoạt động GDHN phù hợp và đồng bộ cùng với quản lí một cách khoa học, thực tiễn sẽ là bước quyết định nâng cao công tác GDHN trong nhà trường phổ thông nhằm đạt mục tiêu GDHN đề ra.

Quản lý GDHN cho học sinh đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục. Các hoạt động GDHN nhằm cụ thể hóa mục tiêu nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực cho đất nước. Để làm được mục tiêu ấy, giáo dục đào tạo phải mang tính toàn diện và từng bước đổi mới về quản lí, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục; phải coi trọng lĩnh vực giáo dục thường xuyên, giáo dục mọi người, xây dựng xã hội hóa học tập, đào tạo và đào tạo lại, phát triển mô hình học tập liên thông để vừa cũng cố và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo cung cấp nguồn lao động cân đối, thích ứng với nhu cầu

Xem tất cả 136 trang.

Ngày đăng: 01/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí