Quản Lý Các Điều Kiện Hỗ Trợ Hoạt Động Dạy Học


chuẩn bị bài, các hoạt động tham gia ở gia đình, địa phương, v.v...).

Các biện pháp của HT quản lý hoạt động học của HS:

- Xây dựng nội quy học tập

- HT nhà trường xây dựng kế hoạch hoạt động học tập của HS

- Xây dựng cho HS ý thức, động cơ thái độ học tập tốt

- Thường xuyên đổi mới phương pháp học tập phù hợp với đối tượng HS

- GV tăng cường xây dựng hệ thống kiến thức nâng cao các mức độ khó dần

- Kiểm tra khả năng tự học của HS qua sách, báo, internet.

- Kiểm tra việc ghi chép bài và làm bài tập của HS.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 164 trang tài liệu này.

- Phối hợp tốt giữa gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội để QL.


Quản lí hoạt động dạy học môn Lịch sử tại các trường trung học phổ thông huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long - 8

1.4.2.8. Quản lý hồ sơ chuyên môn của giáo viên‌

Hồ sơ chuyên môn của GV là công cụ, phương tiện đắc lực giúp GV thực hiện đầy đủ có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của người thầy trong giờ lên lớp. Cho nên việc tổ chức và điều khiển quá trình dạy học trên lớp phần lớn phụ thuộc vào giáo án, tư liệu chuyên môn của GV. Thông qua quản lý hồ sơ, HT quản lý chặt chẽ hơn các hoạt động chuyên môn của GV, việc thực hiện quy chế, nền nếp dạy học theo yêu cầu của nhà trường.

Trong phạm vi dạy học của GV, hồ sơ cần có: kế hoạch giảng dạy bộ môn, giáo án, sổ ghi điểm, sổ dự giờ, sổ chủ nhiệm, sổ tự bồi dưỡng chuyên môn. Hiệu trưởng cần phải hướng dẫn, yêu cầu cụ thể cho từng loại hồ sơ, cần quy định nội dung và thống nhất các loại mẫu. Có kế hoạch kiểm tra theo định kỳ hoặc kiểm tra đột xuất để thu thập, đánh giá chất lượng hồ sơ, kết quả thực hiện quy chế chuyên môn của GV.

Các biện pháp HT thực hiện để quản lý hồ sơ chuyên môn của giáo viên:

- Phổ biến các văn bản chỉ đạo của ngành về qui định các loại hồ sơ chuyên

môn.

- Hướng dẫn, yêu cầu cụ thể cho từng loại hồ sơ


- Xây dựng và thực hiện kế hoạch kiểm tra theo định kỳ hoặc kiểm tra đột xuất để thu thập, đánh giá chất lượng hồ sơ chuyên môn

- Tổ chức kiểm tra hồ sơ chuyên môn theo kế hoạch kiểm tra nội bộ nhà trường.

- Công khai kết quả kiểm tra hồ sơ chuyên của giáo viên.

- Quy định kết quả xếp loại hồ sơ vào quy chế xét thi đua cuối năm.


1.4.2.9. Quản lý công tác bồi dưỡng giáo viên‌

GV là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục trong nhà trường, đây cũng là lực lượng cần phải bồi dưỡng thường xuyên, chuẩn hoá, nâng cao phẩm chất và năng lực để đáp ứng yêu cầu đổi mới của GD. Điều lệ trường phổ thông đã quy định: “Trong trường phổ thông, giáo viên là lực lượng chủ yếu, giữ vai trò chủ đạo trong mọi hoạt động giáo dục”. Đội ngũ GV và CBQL là lực lượng cốt cán đưa mục tiêu giáo dục thành hiện thực, giữ vai trò quyết định chất lượng và hiệu quả đào tạo, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới giáo dục. Vì vậy quản lý công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ GV có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học ở nhà trường.

Công tác bồi dưỡng đội ngũ, HT phải thực hiện các biện pháp như sau:

- Xây dựng kế hoạch đưa GV tham gia các lớp tập huấn, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.

- Tổ chức việc bồi dưỡng thường xuyên theo chương trình của Bộ GD-ĐT

- Chỉ đạo tổ trưởng chuyên môn tổ chức bồi dưỡng cho GV thông qua sinh hoạt tổ.

- Xây dựng kế hoạch cho GV tự bồi dưỡng thường xuyên hàng năm theo quy

định.

- Tổ chức các buổi hội thảo, giao lưu học tập kinh nghiệm giữa các đồng

nghiệp trong trường, với các đơn vị bạn.

- Tập huấn cho GV sử dụng các phần mềm ứng dụng trong dạy học và kiểm


tra


- Công tác hỗ trợ GV tự bồi dưỡng của HT.

Tóm lại: HT cần quan tâm đến việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, nhằm nâng

cao phẩm chất và năng lực, đáp ứng được yêu cầu phát triển của xã hội. Đặc biệt, đội ngũ giáo viên cần phải được bồi dưỡng chuyên sâu về nghiệp vụ, trình độ chuyên môn, phương pháp giảng dạy, phương pháp kiểm tra đánh giá học sinh, đạo đức chính trị, học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

1.4.2.10. Quản lý các điều kiện hỗ trợ hoạt động dạy học‌

Nói đến các điều kiện hỗ trợ hoạt động dạy học là nói đến CSVC và TBDH, các cơ chế chính sách giáo dục của địa phương, hoạt động thi đua khen thưởng của các tổ chức đoàn thể, các động động hỗ trợ học tập của Ban đại diện cha mẹ học sinh. Trong đó, yếu tố CSVC và TBDH có vai trò quan trọng hơn cả.

Có thể hiểu CSVC và TBDH là tất cả các phương tiện kỹ thuật vật chất, kỹ thuật và sản phẩm khoa học công nghệ được huy động vào các hoạt động giáo dục trong nhà trường. Trong đó phương tiện kỹ thuật dạy học là một bộ phận CSVC và TBDH nói chung.

Để nâng cao chất lượng dạy học thì vai trò, vị trí của thành tố CSVC và TBDH là rất quan trọng. CSVC và TBDH là một trong những thành tố cấu thành của quá trình dạy học. CSVC và TBDH là một điều kiện rất quan trọng để đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. CSVC và TBDH có vai trò và tầm quan trọng như các thành tố nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, lực lựợng giáo dục và môi trường giáo dục.

Việc QL CSVC và TBDH trong nhà trường phải đảm bảo được các yêu cầu cơ bản là:

- Phải đảm bảo đầy đủ CSVC và TBDH, trang thiết bị kỹ thuật phục vụ dạy và

học.


- CSVC và TBDH phải được sử dụng có hiệu quả trong nhà trường.

- Tổ chức QL tốt việc sử dụng, bảo quản, đầu tư mới CSVC và TBDH trong nhà trường.

Các biện pháp QL CSVC và TBDH của HT trong nhà trường, bao gồm:

- Lập kế hoạch khai thác và sử dụng hiệu quả CSVC và TBDH.

- Chỉ đạo khai thác và sử dụng hiệu quả CSVC và TBDH môn Lịch sử.

- Kiểm tra đầy đủ các tiết sử dụng ĐDDH của GV được quy định trong PPCT.

- Tổ chức hội thi làm ĐDDH môn cấp trường.

- Thường xuyên bồi dưỡng năng lực sử dụng

- Tổ chức các tiết hội giảng môn Lịch sử với mục tiêu sử dụng hiệu quả TBDH trong tiết dạy. Thường xuyên bồi dưỡng năng lực sử dụng các TBDH môn Lịch sử cho GV.

- Chỉ đạo việc bảo quản tốt CSVC và TBDH.

Tóm lại: HT cần hướng tới quản lý CSVC và TBDH để khai thác, sử dụng triệt để và có hiệu quả những thiết bị dạy học hiện có, được cấp, tự trang bị. Mặt khác, cần khai thác tiềm năng của GV, HS, các lực lượng xã hội trong việc sưu tầm các mẫu vật, tranh ảnh, trong việc làm ra các TBDH, vừa chú ý quản lý, kiểm tra, ngăn ngừa tình trạng không sử dụng hoặc sử dụng kém hiệu quả các TBDH hiện có.

1.4.4. Yêu cầu quản lí hoạt động dạy học bộ môn lịch sử ở trường phổ‌

thông trong giai đoạn hiện nay


Nghị quyết 29-NQ/TW, Đảng CSVN lần thứ XI (2013) “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã xác định mục tiêu tổng quát của “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo" “Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân...”. Nghị quyết 29 cũng xác định rõ một trong các nhiệm vụ


và giải pháp hàng đầu là “Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng”. Trong bối cảnh đổi mới chung này, giáo dục trung học phổ thông phải được đổi mới mạnh mẽ, không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục - dạy học vì đây là cấp học nền tảng để học sinh tiếp tục học nghề hay chuyên môn sâu ở cấp cao hơn. Dạy học là hoạt động trung tâm của nhà trường và là một trong những nội dung cơ bản của quản lý nhà trường. Do đó vai trò của Hiệu trưởng và các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng đối với hoạt động dạy học có tác động trực tiếp đến nâng cao chất lượng dạy học, nâng cao hiệu quả quản lý nhà trường phổ thông.

Đối với bộ môn Lịch sử ở trường THPT yêu cầu quản lí hoạt động dạy học trong giai đoạn hiện nayphải đảm các nội dung sau:

Một là: Đổi mới mạnh mẽ phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, nhằm phát huy tích tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, tăng cường kỹ năng thực hành, kỹ năng vận dụng các kiến thức để giải quyết các vấn đề thực tiễn. Đa dạng hóa hình thức học tập, chú trọng các hoạt động trãi nghiệm sáng tạo, các tiết tham quan dã ngọa, ứng dụng CNTT trong dạy và học

Hai là: Đẩy mạnh đổi mới hình thức, phương pháp, thi và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh. Kết hợp đánh giá quá trình học tập với đánh giá cuối kỳ, cuối năm, đánh giá của giáo viên đối với học sinh và đánh giá của học sinh lẫn nhau, đánh giá của nhà trường kết hợp với gia đình và xã hội.

Ba là: Phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ QL GD về năng lực chuyên môn, có tâm, có tầm, đáp ứng theo yêu cầu chuẩn nghề nghiệp và yêu cầu đổi mới của giáo dục hiện nay.


1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý hoạt động dạy học môn lịch sử ở trường THPT‌

1.5.1. Đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước về DH môn lịch sử‌


Trước tiên, đó là nhận thức về vị trí, vai trò của môn học. Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhận thức rõ tầm quan trọng của các môn khoa học xã hội và nhân văn nói chung, môn Lịch sử nói riêng, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII (1997) khẳng định: “Coi trọng hơn nữa các môn khoa học xã hội và nhân văn, nhất là Tiếng Việt, Lịch sử dân tộc”(19, tr40). Nhà giáo nhân dân Phan Huy Lê còn khẳng định "riêng đối với Việt Nam, lịch sử càng giữ vai trò cực kỳ quan trọng gắn liền với sự tồn vong của quốc gia – dân tộc... Thế hệ trẻ lớn lên qua nền giáo dục phổ thông mà không yêu mến lịch sử dân tộc, không có một vốn hiểu biết cần thiết về lịch sử và văn hoá dân tộc và nhân loại, không có một niềm tự tin dân tộc, không kế thừa các truyền thống dân tộc, thì làm sao có thể hoàn chỉnh được phẩm chất của người công dân Việt Nam. Từ đặc điểm đó, môn Lịch sử càng phải đặt đúng vị thế và chức năng của nó trong hệ thống giáo dục phổ thông” (Phan Huy Lê, 1978).

Hiện tại, Lịch sử được coi là môn bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông và có những ưu thế riêng trong đào tạo con người vì: Học Lịch sử, học sinh hiểu được quy luật phát triển của xã hội loài người, cũng như tính tất yếu lịch sử của sự nghiệp giải phóng và phát triển dân tộc. “Ôn cũ biết mới”, những hiểu biết về quá khứ sẽ giúp học sinh hiểu hiện tại hơn, có niềm tin và hành động đúng đắn hơn. Lịch sử góp phần giáo dục truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, một hành trang để thế hệ trẻ bước vào cuộc sống.

Như vậy, về đường lối chủ trương của Đảng và Nhà nước là yếu tố tác động tích cực đến hoạt động dạy học Lịch sử hiện nay. Tuy nhiên, nhận thức của học sinh về môn học và quan điểm của giáo viên dạy môn lịch sử là yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình hoạt động dạy học Lịch sử hiện nay.


1.5.2. Nhận thức của học sinh về môn học lịch sử‌

Do đặc trưng môn Lịch sử khác với các môn học khác trong chương trình dạy học ở phổ thông đó là: học sinh không được trực tiếp chứng kiến sự kiện lịch sử đó trực tiếp vì lịch sửkhông lặp lại.Việc học tập môn lịch sử là quá trình nhận thức biến những kiến thức khoa học lịch sử tích luỹ từ nhiều thế hệ của nhân loại, được lựa chọn thành kiến thức của chính mình. Trong quá trình học tập phải lấy tự học làm gốc để chiếm lĩnh kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ được giao, để nắm vững kiến thức lịch sử một cách chính xác. Tuy nhiên, dạy và học lịch sử ở các trường phổ thông hiện nay tồn tại những nhận thức của học sinh như sau:

- Quan niệm môn đây là môn phụ nên việc tự học Lịch sử hầu như không được chú trọng, các em chủ yếu học bài ở vở ghi và sách giáo khoa.

- Học chỉ để đối phó với thi cử và kiểm tra, cho nên ý thức học tự giải quyết vấn đề chưa trở thành động lực trong học tập, chưa chủ động học để làm phong phú thêm kiến thức Lịch sử cho bản thân.

- Học sinh rất ít khi trình bày ý kiến của mình vì cho rằng kiến thức của mình còn yếu kém, hoặc không tự tin để trình bày.

Những nhận thức trên của học sinh bắt nguồn từ do bản thân người học còn có điểm xuất phát là chưa có những cải tiến trong cách dạy nên người học còn có những tồn tại những hạn chế làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học môn Lịch sử ở trường phổ thông.

1.5.3. Quan điểm của giáo viên dạy môn lịch sử‌

Lịch sử là một một môn học đặc thù, kiến thức lịch sử là những gì đã diễn ra trong quá khứ, chính vì thế nhiệm vụ của dạy học lịch sử là khôi phục lại bức tranh quá khứ để từ đó rút ra bài học từ quá khứ, vận dụng nó vào trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Trong việc khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động, phương tiện trực quan là một yếu tố hết sức cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình dạy và học hiện nay đang nảy sinh một vấn đề cần phải khắc phục đó là: Một bộ phận giáo viên trong quá trình giảng dạy chưa đổi mới và vận dụng đúng phương pháp phát triển khả năng nhận thức lịch sử của học sinh trong dạy học lịch sử.

Giáo viên vẫn chủ yếu dạy học bằng phương pháp dạy học truyền thống “Thầy


đọc trò chép”, vẫn còn tình trạng học sinh chỉ coi môn Lịch sử chỉ là môn phụ, chưa thực sự chú ý, quan tâm nhiều đến bộ môn này. Bên cạnh đó trong thực tế giảng dạy có nhiều giáo viên chưa phát huy được tính tích cực, chưa gây hứng thú cho học sinh. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc dạy và học môn Lịch sử chưa đạt được kết quả cao. Từ đó dẫn đến sự hạn chế về mặt nhận thức của học sinh trong bộ môn lịch sử.


1.5.4. Các yếu tố cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học.

Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học là tất cả các phương tiện vật chất được huy động vào việc giảng dạy, học tập và các hoạt động mang tính giáo dục.

Nội dung cơ sở vật chất và thiết bị dạy học bao gồm: Trường học sách giáo khoa, sách tham khảo, thư viện trường học, thiết bị dạy học, các phương tiện dạy học khác.

Quá trình dạy học, giáo dục cấu thành bởi nhiều yếu tố có liên quan chặt chẽ và tương tác với nhau: Các thành tố cấu thành quá trình dạy học là: Mục tiêu - Nội dung -Phương pháp - Giáo viên - Học sinh - Thiết bị giáo dục. Như vậy,cơ sở vật chất và thiết bị dạy học là một bộ phận cấu thành không thể thiếu của quá trình giáo dục, dạy học.

Mục tiêu và nội dung học tập của nhà trường phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế - xã hội vĩ mô, còn sách giáo khoa và thiết bị dạy học một mặt phụ thuộc vào mục tiêu kinh tế - xã hội, mặt khác còn ảnh hưởng của khoa học công nghệ đương thời. Ngày nay khi khoa học và công nghệ phát triển vượt bậc, sự tiến bộ đó cũng phản ánh vào hệ thống cơ sở vật chất và thiết bị dạy học của nhà trường.

Đứng về mặt nội dung và phương pháp dạy học thì cơ sở vật chất và thiết bị dạy dạy học đóng vai trò hỗ trợ tích cực, vì có thiết bị dạy học tốt thì ta mới có thể tổ chức tốt quá trình dạy học khoa học, đưa người học tham gia thực sự vào quá trình này, tự khai thác và tiếp nhận tri thức dưới sự hướng dẫn của người day. Thiết bị dạy học phải đủ và phù hợp mới triển khai được phương pháp dạy học có hiệu quả.

Xem tất cả 164 trang.

Ngày đăng: 30/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí