Sơ Đồ Các Chức Năng Quản Lý

dạy học, năng lực quan sát, đánh giá kết quả các hoạt động dạy học, năng lực giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tế dạy học. Ba nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng GV là: quá trình đào tạo, sử dụng và bồi dưỡng GV; hoàn cảnh và điều kiện lao động sư phạm của GV; ý chí, thói quen và năng lực tự học của GV. Tác giả cũng đề ra ba giải pháp cho vấn đề GV: phải đổi mới công tác đào tạo, đổi mới công tác bồi dưỡng và đổi mới việc sử dụng GV.

Trong bài “Nghề và Nghiệp của người GV” đăng tải trong kỷ yếu hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo toàn quốc lần thứ 2, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc đã đề cập tính chất nghề nghiệp của người GV. Tác giả đã nhấn mạnh đến vấn đề “lý tưởng sư phạm”, cái tạo nên động cơ cho việc thực hành nghề dạy học của GV, thôi thúc người GV sáng tạo, thúc đẩy người GV không ngừng học hỏi và nâng cao trình độ. Từ đó, tác giả đề nghị cần phải xây dựng tập thể sư phạm theo mô hình “đồng thuận” mà ở đó GV trong quan hệ với nhau có sự chia sẻ “bí quyết nhà nghề”; đồng thời, những yêu cầu về năng lực chuyên môn của người GV là nền tảng của mô hình đào tạo GV thế kỷ XXI: sáng tạo và hiệu quả.

Trong bài viết “Chất lượng giáo viên và những chính sách cải thiện chất lượng giáo viên” đăng trên tạp chí phát triển giáo dục số 2 năm 2003, tác giả Nguyễn Thanh Hoàn đã trình bày khái niệm chất lượng GV bằng cách phân tích kết quả nghiên cứu về chất lượng GV của các nước thành viên OECD. Tác giả đưa ra những đặc điểm và năng lực đặc trưng của một GV qua sự phân tích năng lực cụ thể trên góc độ tiếp cận năng lực giảng dạy và giáo dục. Tác giả cũng đề cập những chính sách cải thiện và duy trì chất lượng GV ở cấp vĩ mô và vi mô; từ đó, tác giả nhấn mạnh đến ba vấn đề nguồn quyết định chất lượng GV là: bản thân người GV, nhà trường, môi trường chính sách bên ngoài.

Trong thời kì đổi mới, vấn đề nâng cao chất lượng ĐNGV được Đảng và Nhà nước ta coi là một trong các giải pháp cho việc phát triển GD&ĐT; để giáo dục trở thành "quốc sách hàng đầu" trong sự nghiệp đổi mới đất nước; vừa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2012 –2020 đã xác định một trong những giải pháp quan trọng để phát triển giáo dục quốc gia.

Trong chương trình đào tạo sau đại học chuyên ngành quản lý giáo dục, vấn đề ĐNGV cũng được triển khai nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống. Nhiều

luận văn tốt nghiệp đã chọn đề tài nghiên cứu là vấn đề quản lý hoạt động bồi dưỡng GV: luận văn “Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên mầm non theo Chuẩn nghề nghiệp ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn” của tác giả Triệu Thị Hồng Vân; luận văn “Quản lý bồi dưỡng giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp ở trường tiểu học Uy Nỗ, huyện Đông Anh – Hà Nội” của tác giả Vũ Thị Kim Oanh; luận văn “Quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ giáo viên theo Chuẩn nghề nghiệp ở trường trung học cơ sở Nguyễn Huy Tưởng – Đông Anh, Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà; luận văn “Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên trường trung học phổ thông Quất Lâm, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục” của tác giả Mai Văn Nghiêm; luận văn “Biện pháp quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học của giáo viên trường trung học phổ thông Hải An, thành phố Hải Phòng đáp ứng Chuẩn nghề nghiệp” của tác giả Vũ Văn Huy; luận văn “Quản lý bồi dưỡng năng lực dạy học cho GV trường trung học phổ thông Tam Đảo, Vĩnh Phúc” của tác giả Phạm Kim Thành;… Các luận văn kể trên đã nghiên cứu một số khái niệm về quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường, bồi bưỡng, Chuẩn và Chuẩn nghề nghiệp GV... từ mầm non, tiểu học, THCS đến THPT; đã nghiên cứu, phân tích thực trạng công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV; từ đó đề xuất nhiều biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV phù hợp với đơn vị mình công tác.

Tiếp thu, kế thừa những thành tựu đã có, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo trường trung học phổ thông huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam theo Chuẩn nghề nghiệp để phát triển năng lực dạy học”. Đề tài này tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV các trường THPT trên địa bàn mà tác giả đang công tác, đưa ra các biện pháp thiết thực, khả thi nhằm quản lý hoạt động bồi dưỡng đội ngũ GV theo Chuẩn nghề nghiệp để phát triển năng lực dạy học, đáp ứng mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện của GD&ĐT tỉnh Hà Nam.

1.2. Một số khái niệm cơ bản

1.2.1. Quản lý

1.2.1.1. Khái niệm quản lý

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Theo C.Marx: “Quản lý là lao động điều khiển lao động”. C.Marx đã coi việc xuất hiện quản lý như là một kết quả tất nhiên của sự chuyển nhiều quá trình lao động cá biệt, tản mạn, độc lập với nhau thành một quá trình xã hội được phối

hợp lại. C.Marx đã nhấn mạnh vai trò của quản lý: “Một người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng.”[9, tr326].

Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên trung học phổ thông ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam theo chuẩn nghề nghiệp để phát triển năng lực dạy học - 3

Theo Harold Kootz: “Quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của cá nhân để đạt được những mục đích của nhóm.”[21, tr48].

Theo Harold Koontz-Cyric Odonnell-Heinz Weihrich cho rằng: “Quản lý là hoạt động đảm bảo sự nỗ lực của cá nhân để đạt được mục tiêu quan trong điều kiện chi phí thời gian, công sức, tài liệu, vật liệu, ít nhất và đạt được kết quả cao nhất.”[21, tr57].

Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì hiện nay quản lý được định nghĩa rõ hơn: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra.” [10, tr9].

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: “Bản chất của hoạt động quản lý gồm hai quá trình tích hợp vào nhau: Quá trình “quản” gồm sự coi sóc, giữ gìn, duy trì hệ ở trạng thái “ổn định”; quá trình “lý” gồm sự sửa sang, sắp xếp, đổi mới hệ đưa hệ vào thế “phát triển”... Trong “quản” phải có “lý”, trong “lý” phải có “quản” để động thái của hệ ở thế cân bằng động: hệ vận động phù hợp, thích ứng và có hiệu quả trong mối tương tác giữa các nhân tố bên trong (nội lực) với các nhân tố bên ngoài (ngoại lực).”[2, tr45].

Tuy có nhiều cách diễn đạt khác nhau, song các quan điểm quản lý nói trên đề cập đến bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt mục đích đề ra. Quá trình này là quá trình tác động hai chiều thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Khi mục tiêu của tổ chức thay đổi sẽ tác động đến đối tượng quản lý thông qua chủ thể quản lý. Có thể nói rằng quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật. Là hoạt động khoa học, bởi lẽ các hoạt động quản lý có tổ chức, có định hướng dựa trên những quy luật,những nguyên tắc và phương pháp hoạt động cụ thể. Đồng thời, quản lý cũng là một nghệ thuật vì nó vận dụng sáng tạo trên những điều kiện cụ thể trong sự kết hợp và tác động nhiều mặt của các yếu tố khác nhau trong xã hội. Quản lý đúng sẽ giúp cho tổ

chức hạn chế được các tồn tại, phát huy những mặt mạnh góp phần tạo niềm tin, sức mạnh và truyền thống của một tổ chức.

1.2.1.2. Chức năng quản lý

Để đạt được mục tiêu đã định, quản lý phải thông qua các chức năng quản lý như sau: kế hoạch hóa; tổ chức; lãnh đạo - chỉ đạo; kiểm tra.

- Chức năng kế hoạch hóa (planning): là chức năng khởi đầu, là tiền đề của mọi quá trình quản lý. Kế hoạch hóa có nghĩa là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hóa: xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức; xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các nguồn lực của tổ chức để đạt được các mục tiêu và quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu đó. [23].

- Chức năng tổ chức (organizing): Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn vật lực và nhân lực. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lý sử dụng các nguồn lực này sao cho có hiệu quả và có kết quả. Quá trình tổ chức sẽ lôi cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận, các phòng ban cùng các công việc của chúng. Và sau đó là vấn đề nhân sự, cán bộ sẽ tiếp nối ngay sau các chức năng kế hoạch hóa và tổ chức. [23].

- Chức năng lãnh đạo - chỉ đạo (leading): Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy đã hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có ai đó đứng ra lãnh đạo, dẫn dắt tổ chức. Một số học giả gọi đó là quá trình chỉ đạo hay tác động. Dù gọi như thế nào thì khái niệm lãnh đạo đều bao hàm việc liên kết, liên hệ với người khác và động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Hiển nhiên việc lãnh đạo không chỉ bắt đầu sau khi việc lập kế hoạch và thiết kế bộ máy đã hoàn tất, mà nó thấm vào, ảnh hưởng quyết định tới hai chức năng kia. [23].

- Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là một chức năng của quản lý, thông qua đó một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi, giám sát các thành quả hoạt

động và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn cần thiết. Một kết quả hoạt động phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương ứng thì phải tiến hành những hành động điều chỉnh, uốn nắn. Đó cũng là quá trình tự điều chỉnh, diễn ra có tính chu kỳ: người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hoạt động, sau đó đối chiếu, đo lường kết quả, sự thành đạt so với chuẩn mực đã đề ra; rồi tiến hành điều chỉnh những sai lệch. Cuối cùng hiệu chỉnh, sửa lại chuẩn mực nếu cần. [23].

Muốn cho hệ thống quản lý vận hành có kết quả thì quá trình quản lý là một thể thống nhất trọn vẹn. Cần lưu ý vai trò của thông tin rất quan trọng, nó được coi như “mạch máu” của hoạt động quản lý. Chính vì vậy, trong những nghiên cứu gần đây coi thông tin như một chức năng trung tâm liên quan đến các chức năng quản lý khác.Chúng ta có thể biểu diễn mối quan hệ giữa các chức năng quản lý theo sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.1.Sơ đồ các chức năng quản lý

1.2.2. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường

1.2.2.1. Quản lý giáo dục

Giáo dục là một bộ phận của xã hội, nên QLGD là một loại hình quản lý xã hội. Dựa trên khái niệm "quản lý" các nhà nghiên cứu về giáo dục đã đưa ra nhiều định nghĩa về QLGD.

Học giả nổi tiếng M.I Kônđacôp cho rằng: QLGD là tập hợp những biện pháp tổ chức, cán bộ, kế hoạch, tài chính cung tiêu... nhằm đảm bảo vận hành bình

thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục để tiếp tục phát triển và mở rộng cả về mặt số lượng lẫn chất lượng.[29].

Dẫn theo P.V. Khuđôminxky thì: “QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức, có mục đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm đảm bảo việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển hài hoà của họ trên cơ sở nhận thức và sử dụng các quy luật khách quan của quá trình dạy học và giáo dục, của sự phát triển thể chất và tâm lý của trẻ em.” [14, tr327].

Tác giả Đặng Quốc Bảo: "Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho tất cả mọi người. Cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục quốc dân." [2, tr72].

Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì: “Quản lý giáo dục là hệ thống tác động có mục đích, có kế hoạchcủa chủ thể quản lý phù hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ thống vận hành theo đường lối của giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy-học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục đến mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [14, tr341]

Các quan điểm về quản lý giáo dục ở trên đều thống nhất chỉ ra đặc trưng cơ bản của quản lý giáo dục là quản lý con người nên không chỉ cần tính khoa học mà còn phải có nghệ thuật. Bởi sản phẩm đầu ra của quá trình quản lý giáo dục không phải là một đồ vật mà là con người, là nhân cách của người học theo mục tiêu giáo dục. Theo tác giả: quản lý giáo dục là quá trình tác động có tổ chức và mang tính hệ thống của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đưa hoạt động của mỗi cơ sở giáo dục,cũng như toàn bộ hệ thống giáo dục đạt tớimục tiêu xác định. Đó là những tác động phù hợp quy luật khách quan, hướng tới việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Bản chất của quản lý giáo dục là quá trìnhtác động có định hướng của chủ thể quảnlý lên các thành tố tham giavào quá trình hoạt động giáo dục nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu giáo dục. Mục tiêu của quản lý giáo dục chính là trạng thái mong muốn trong tương lai đối với hệ thống giáo dục, đối với trường học, hoặc đối với những thông số chủ yếu của hệ thống giáo dục trong mỗi

nhà trường. Những thông số này được xác định trên cơ sở đáp ứng những mục tiêu tổng thể của sự phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước. Mục tiêu này gồm: đảm bảo quyền HS vào các ngành học, cấp học, các lớp học đúng chỉ tiêu và tiêu chuẩn. Đảm bảo chỉ tiêu và chất lượng đạt hiệu quả đàotạo, phát triển tập thể sư phạm đồng bộ, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đời sống vật chất. Xây dựng và hoàn thiện các tổ chức chính quyền, Đảng, đoàn thể, quần chúng để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục và đào tạo. Đối tượng của quản lý giáo dục là hoạt động của cán bộ, giáo viên, HS và tổ chức sư phạm của nhà trường trong việc thực hiện kế hoạch và chương trình GD&ĐT nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đã quy định với chất lượng cao. Nội dung quản lý giáo dục bao gồm một số vấn đề cơ bản, đó là: xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược; quy hoạch; kế hoạch; chính sách phát triển giáo dục; ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu chuẩn cơ sở vật chất thiết bị trường học; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; tổ chức,chỉ đạo việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên; huy động sử dụng các nguồn lực…

1.2.2.2. Quản lý nhà trường

Theo tác giả Trần Kiểm thì cho rằng: “Quản lý trường học có thể hiểu là một hệ thống những tác động sư phạm hợp lý và có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm huy động và phối hợp sức lực, trí tuệ của họ vào mọi mặt hoạt động của nhà trường hướng vào việc hoàn thành có chất lượng và hiệu quả mục tiêu dự kiến”...[20, tr27].

Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng HS”. [16, tr27].

Quản lý nhà trường bao gồm hai loại tác động quản lý:

+ Quản lý nhà trường là những tác động quản lý của cơ quan quản lý giáo dục cấp trên nhằm hướng dẫn và tạo điều kiện cho hoạt động giảng dạy, giáo dục và học tập của nhà trường. Quản lý nhà trường cũng bao gồm những chỉ dẫn, quyết định của các thực thể bên ngoài nhà trường nhưng có liên quan trực tiếp tới nhà trường như cộng đồng được đại diện dưới hình thức Hội đồng nhân dân, Ủy ban

nhân dân các cấp nhằm định hướng sự phát triển của nhà trường, hỗ trợ tạo điều kiện cho việc thực hiện phương hướng phát triển đó.

+ Quản lý nhà trường là những tác động do chủ thể quản lý bên trong nhà trường thực hiện, bao gồm các tác động để: quản lý giáo viên, quản lý HS,quản lý quá trình dạy học và giáo dục,quản lýcơ sở vật chất, thiết bị dạy học,quản lý tài chính trường học,quản lýlớp học như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng.

Như vậy, quản lýnhà trường còn được coi là:

+ Tập hợp những tác động tối ưu (cộng tác, tham gia, hỗ trợ, phối hợp, huy động, can thiệp) của chủ thể quản lýtới tập thể giáo viên, HS và cán bộ viên chức khác trong nhà trường.

+ Hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt độngcủa nhà trường mà trọng tâm là hoạt động dạy học và giáo dục.

+ Thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo để đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới.

Mục đích của công tác quản lý trường học:

+ Bảo đảm kế hoạch phát triển giáo dục: tuyển chọn HS vào lớp đầu cấp đúng theo số lượng và chất lượng của Bộ GD&ĐT quy định, duy trì số lượng HS đang học và hạn chế đến mức thấp nhất HS lưu ban, bỏ học.

+ Bảo đảm chất lượng và hiệu quả giảng dạy, giáo dục: tiến hành các hoạt động giáo dục theo đúng chương trình, đảm bảo yêu cầu đối với môn học và các hoạt động giáo dục.

+ Xây dựng đội ngũ giáo viên của trường có đủ phẩm chất, năng lực, đồng bộ về cơ cấu, có đủ loại hình để đảm bảo giảng dạy giáo dục HS đạt chất lượng cao. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhân viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thích hợp, phục vụ tích cực cho nhiệm vụ giáo dục và đào tạo của nhà trường.

+ Từng bước hoàn thiện cơ sở vật chất, kĩ thuật phục vụ thiết thực cho giảng dạy và giáo dục.

+ Xây dựng và hoàn thiện môi trường giáo dục trong nhà trường, thống nhất giáo dục với địa phương, cộng đồng...

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 17/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí