Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi trong quá trình dạy học Lịch sử lớp 12 ở trường trung học phổ thông Giao Thủy tỉnh Nam Định - 9

trong cuộc đời mỗi con người không phải do dòng dõi mang lại mà do chính bàn tay mỗi người tạo nên. Các em hãy đến đài chiến thắng vinh quang bằng chính sức mạnh trí tuệ của bản thân và hãy tin rằng: có chí thì nên.

2.2.4.2. Bồi dưỡng năng lực

“Năng lực là tổ hợp những thuộc tính độc đáo của cá nhân, phù hợp với những yêu cầu của một hoạt động nhất định, đảm bảo cho hoạt động đó có hiệu quả”[29.tr. 78]. Trong học tập năng lực thường được chia thành hai loại: năng lực chung và năng lực riêng biệt. “Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều hoạt động khác nhau, chẳng hạn những thuộc tính về thể lực, về trí tuệ(quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ). Năng lực riêng biệt là năng lực có tính chất chuyên môn, nhằm đáp ứng yêu cầu của một hoạt động chuyên môn nhất định” [29.tr. từ 78 - 79]. Tiếp cận với xu hướng đổi mới giáo dục, trong quá trình bồi dưỡng HSG, chúng tôi tập trung vào bồi dưỡng các năng lực chung: tự học, phát hiện và giải quyết vấn đề, sáng tạo, sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, sử dụng ngôn ngữ và các năng lực chuyên biệt: tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật; xác định và giải quyết mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử với nhau, so sánh, phân tích, phản biện, khái quát hóa; nhận xét, đánh giá rút ra bài học lịch sử; vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra; thông qua sử dụng ngôn ngữ lịch sử thể hiện chính kiến của mình về các vấn đề lịch sử.

Trong quá trình bồi dưỡng HSG, chúng tôi coi việc phát triển năng lực cho HS trở thành một trong những mục tiêu chủ yếu bởi “năng lực góp phần làm cho sự tiếp thu tri thức, hình thành kỹ năng kỹ xảo tương ứng với năng lực đó”[29. tr.78] tức là năng lực học tập của HS được bồi dưỡng sẽ góp phần thực hiện mục tiêu của hoạt động dạy học mà “năng lực của mỗi người được hình thành trên cơ sở những tư chất. Nhưng điều chủ yếu là năng lực hình thành trong hoạt động tích cực của con người dưới tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục”[29.tr.78].

Để HSG phát triển được các năng lực chủ yếu trên, chúng tôi thực hiện bồi dưỡng các kỹ năng cơ bản:

- Bồi dưỡng kỹ năng ghi nhớ.

“ Trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ảnh những kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo sau đó ở trong óc những cái cái mà con nguời đã cảm giác, tri giác, rung động, hành động hay suy nghĩ trước đây”[ 29.tr.58]. Trí nhớ có vai trò quan trọng đối với HS bởi “đối với nhận thức, trí nhớ có vai trò đặc biệt to lớn. Nó là công cụ để lưu giữ kết quả của các quá trình cảm giác và tri giác. Trí nhớ là một điều kiện quan trọng để diễn ra quá trình nhận thức lý tính và làm cho quá trình này đạt được kết quả hợp lý”[29.tr.59]. Ghi nhớ là một bộ phận cấu thành trí nhớ của con người, “là quá trình trí nhớ đưa tài liệu nào đó vào ý thức, gắn tài liệu đó với những kiến thức hiện có, làm cơ sở cho quá trình gìn giữ về sau đó, nói cách khác là tạo ra dấu vết, ấn tượng cũa đối tượng mà ta đang tri giác” [29.tr.61]. Như vậy ghi nhớ là một trong những hoạt động thường xuyên và là điều kiện tiên quyết để HS hiểu LS một cách sâu sắc.

Xuất phát từ cơ sở trên mà trong quá trình bồi dưỡng HSG chúng tôi hướng tới mục tiêu các em phải có khả năng ghi nhớ tốt: nhớ nhanh, nhớ nhiều, nhớ chính xác, nhớ lâu và nhớ có hệ thống. Tuy nhiên để đạt được điều này ngoài một số học sinh có tư chất về khả năng ghi nhớ thiên bẩm, đa số các em muốn nhớ được đều phải trải qua quá trình học thuộc lòng nhiều, học đi học lại, song không phải cứ học nhiều, học đi học lại là nhớ được lâu và chính xác. Thậm chí vì lí do học nhiều, học đi học lại mà vẫn không nhớ, nên nhiều học sinh chán học LS. Vậy học sinh giỏi cần được rèn luyện như thế nào để có trí nhớ tốt?

Trước hết chúng tôi xác định hai loại trí nhớ rất cần thiết để bồi dưỡng cho HS là trí nhớ hình ảnh và nhất là trí nhớ từ ngữ lô-gích bởi “đây là loại trí nhớ giữ vai trò chủ đạo của con người, giữ vai trò chính trong việc lĩnh hội tri thức của học sinh” [29.tr.54]. Trong quá trình bồi dưỡng loại trí nhớ này chúng tôi

hướng dẫn HS thực hiện ghi nhớ có chủ định tức là xác định mục đích của ghi nhớ và bằng ý chí quyết tâm, sự tập trung cao độ để ghi nhớ và hướng tới việc HS ghi nhớ một cách lô-gích. Để HS phát triển được loại trí nhớ này chúng tôi hướng dẫn các em rèn luyện các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết, hành động( liên tưởng, lặp lại, vận dụng vào thực tế, đặt câu hỏi..). Để nhớ bài học tốt HS cần chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp. Điều này vô cùng quan trọng đối với học sinh giỏi bởi quá trình chuẩn bị bài là quá trình tự học một cách tích cực của học sinh. Để việc chuẩn bị bài có hiệu quả và thực chất chúng tôi giao nhiệm vụ và hướng dẫn cụ thể cho HS như đọc gì, làm gì, đọc ở đâu, làm như thế nào… và HS phải ghi lại những khúc mắc trong quá trình chuẩn bị bài, những vấn đề phát sinh chưa giải quyết được để cùng tháo gỡ khi học bài mới. Trước mỗi giờ học chúng tôi đều kiểm tra, đánh giá sản phẩm chuẩn bị của các em để kịp thời tiến hành hoạt động học tập tiếp theo cho phù hợp. Như vậy khi thực hiện công việc chuẩn bị bài nghiêm túc HS đã thực hiện việc tự học bài mới một cách chủ động, tích cực do đó những vấn đề cần học của bài mới sẽ được định hình trong đầu các em và các em sẽ nhớ được một phần nội dung của bài học mới. Mặt khác do có sự chuẩn bị bài học trước nên khi đến lớp HS sẽ tự tin để học bài mới đồng thời chủ động tham gia vào các hoạt động học do giáo viên tổ chức. Như vậy việc chuẩn bị bài sẽ giúp học sinh tiếp thu bài mới tốt hơn và ghi nhớ nhanh, nhiều hơn. Tuy nhiên nếu học sinh sau đó không ôn lại bài ngay thì những kiến thức lưu giữ được sẽ bị quên dần và giữ lại được không nhiều. Vì vậy với kinh nghiệm học và dạy của bản thân chúng tôi rèn cho các em thói quen “xào bài” ngay sau khi học bài mới tức là thực hiện việc “giữ gìn” trí nhớ bởi vì càng để lâu lượng thông tin lưu giữ càng ít và thiếu chính xác. Việc “giữ gìn” trí nhớ có hiệu quả được thực hiện bằng việc áp dụng điều đã học để giải quyết các câu hỏi, bài tập là lấy ví dụ minh họa, vận dụng kiến thức đã học để giải quyết các tình huống trong thực tế cuộc sống là tranh luận với mọi người … . Quá trình giữ gìn trí nhớ sẽ giúp HS tái hiện lại kiến thức phục vụ quá trình học tập.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 155 trang tài liệu này.

Tuy nhiên một vấn đề đặt ra mà chúng tôi phải tìm cách hướng dẫn HS tháo gỡ là làm thế nào để các em có thể nhớ lâu, nhớ chính xác khi mà nội dung kiến thức ngày càng nhiều, làm thế nào các em có thể nhớ kiến thức đã học từ đầu năm tới cuối … . Muốn vậy song song với việc bồi dưỡng ghi nhớ chúng tôi hướng dẫn HS thực hiện các biện pháp “chống quên” như gắn tài liệu cần ghi nhớ vào tài liệu học tập của học sinh, hình thành được nhu cầu, hứng thú của học sinh đối với tài liệu đó, thường xuyên yêu cầu các em vận dụng kiến thức cũ khi học bài mới, sau khi kết thúc việc học một hoặc một số bài mới sẽ giành thời gian ôn tập, củng cố kiến thức. Cách thức ôn tập, củng cố kiến thức tốt nhất là giao cho các em làm các dạng bài tập.

Vận dụng cách làm trên để rèn luyện trí nhớ cho HS khi học phần “ Quan hệ quốc tế trong thời kì chiến tranh lạnh” chúng tôi tiến hành: giao cho HS đọc trước SGK và các nguồn tài liệu khác để tìm hiểu về nguyên nhân, quá trình diễn biến của chiến tranh lạnh từ đó bước đầu rút ra đặc điểm, tác động của chiến tranh lạnh đối với quan hệ quốc tế. Tiếp đó trong quá trình học bài trên lớp bằng các phương pháp dạy học chúng tôi cùng HS chốt lại các vấn đề kiến thức HS đã tìm hiểu. Chẳng hạn để nhớ lâu và tự rút ra nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh này chúng tôi yêu cầu HS nhớ lại chính sách đối ngoại của Liên Xô và Mĩ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, sự phát triển của cách mạng thế giới… . Để HS lưu giữ lâu dài trong trí nhớ đặc điểm, bản chất của Chiến tranh lạnh chúng tôi hướng dẫn các em so sánh nó với các cuộc Chiến tranh thế giới để tìm ra điểm đặc trưng của cuộc chiến tranh này. Cùng với biện pháp trên chúng tôi yêu cầu HS liên hệ với LS Việt Nam, tình hình bán đảo Triều Tiên… để hiểu sâu sắc tác động, di chứng của cuộc chiến tranh. Sau khi học bài chúng tôi yêu cầu HS tự đặt câu hỏi và trả lời cho bài học chẳng hạn: tại sao xuất hiện cuộc Chiến tranh lạnh? Đặc điểm nổi bật của cuộc chiến tranh là gì? Chiến tranh lạnh ảnh hưởng như thế nào tới tình hình thế giới và Việt Nam?...

Phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi trong quá trình dạy học Lịch sử lớp 12 ở trường trung học phổ thông Giao Thủy tỉnh Nam Định - 9

- Bồi dưỡng kỹ năng phân tích, tổng hợp.

“Phân tích là sự phân chia bằng trí óc đối tượng nhận thức thành các bộ phận, các thành phần, thuộc tính, quan hệ khác nhau để nhận thức nó sâu sắc hơn.

Tổng hợp là sự hợp nhất bằng trí óc các bộ phận, thành phần, thuộc tính , quan hệ … của đối tượng nhận thức thành một chỉnh thể”[49,29]. Như vậy trong quá trình học tập LS để hiểu sâu sắc và chính xác tri thức LS, HS luôn luôn phải thực hiện các thao tác phân tích và tổng hợp. Song phân tích và tổng hợp phải được thống nhất với nhau tức là “sự phân tích được tiến hành theo phương hướng của sự tổng hợp. Còn tổng hợp được thực hiện trên kết quả của sự phân tích”[29.tr.49]. Đây là các thao tác vô cùng quan trọng để phát triển năng lực chuyên biệt cho HS khi học LS bởi khi HS có khả năng phân tích và tổng hợp tốt các em sẽ có khả năng lập luận tốt tức là học sinh đạt được sự thống nhất giữa “sử” và “luận” khi học LS.

Để học sinh có kỹ năng phân tích, tổng hợp tốt trong quá trình dạy học LS chúng tôi giúp học sinh xác định những yêu cầu của tư duy phân tích, tổng hợp đó là:

+ Xác định mục đích của phân tích, đánh giá.

+ Dữ liệu cần sử dụng để phân tích, đánh giá.

+ Phương hướng phân tích, đánh giá.

+ Mối quan hệ thống nhất giữa phân tích và đánh giá: muốn có đánh giá chính xác cần sự phân tích chính xác, tức là HS chỉ kết luận khi có đầy đủ, chính xác những bằng chứng LS và lập luận hợp lý.

+ Phân tích, đánh giá theo các góc nhìn khác nhau: chính diện, phản diện, bên này hoặc bên kia và phải mang tính công bằng, khách quan, vô tư.

+ Để có thể đánh giá tốt học sinh cần đưa ra tiêu chí đánh giá cụ thể, rõ ràng tức là làm rõ các giá trị của chuẩn mực: như thế nào là đúng, là tốt là phù hợp hay sai lầm, hạn chế…

+ Khi phân tích đánh giá phải đặt đối tượng trong hoàn cảnh LS cụ thể, có thể kết hợp với việc so sánh để làm bật được vấn đề cần đánh giá.

Tóm lại để bồi dưỡng cho học sinh giỏi tư duy phân tích, đánh giá chúng tôi giúp các em hình thành được con đường thực hiện thao tác đó là: mọi suy luận đều phải căn cứ vào sự kiện, hiện tượng, bằng chứng LS cụ thể, chính xác, đầy đủ. Đánh giá LS chỉ có giá trị khi xuất phát từ thực tiễn LS và được thực tiễn kiểm nghiệm.

Vận dụng cách làm trên khi giao bài tập cho HS: đánh giá vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với việc giải quyết vấn đề khủng hoảng đường lối của cách mạng Việt Nam trong ba mươi năm đầu của thế kỷ XX, chúng tôi định hướng cho HS:

+ Tái hiện lại bối cảnh xã hội, phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX, căn cứ vào biểu hiện, kết quả của phong trào tìm ra những hạn chế trong đó hạn chế chủ yếu là khủng hoảng về đường lối cứu nước.

+ Hạn chế đó là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự thất bại của phong trào yêu nước ở Việt Nam. Như vậy yêu cầu bức thiết nhất của cách mạng Việt Nam lúc này là tìm ra con đường cứu nước đúng đắn.

+ Căn cứ vào hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 đến năm 1920 với kết quả là việc Người khẳng định con đường giành độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam là con đường cách mạng vô sản, đó là con đường duy nhất đúng với cách mạng Việt Nam thì có thể đánh giá Nguyễn Ái Quốc đã mở đường cho việc giải quyết vấn đề khủng hoảng đường lối của cách mạng Việt Nam.

+ Căn cứ vào các hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1921 đến năm 1929 có thể rút ra kết luận Bác đã góp phần giải quyết từng bước vấn đề khủng hoảng đường lối của cách mạng Việt Nam.

+ Căn cứ vào Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng rút ra kết luận Bác là người có vai trò giúp cách mạng Việt Nam giải quyết hoàn toàn vấn đề khủng hoảng đường lối cứu nước.

- Bồi dưỡng kỹ năng phản biện:

“Phản biện là nghệ thuật phân tích và đánh giá tư duy với định hướng cải thiện nó” [17.tr.9]. Tư duy phản biện là “tư duy tự định hướng, tự giác, tự giám sát và tự hiệu chỉnh” [17.tr.10]. Trong học tập, nhất là học tập LS, tư duy phản biện là vô cùng cần thiết bởi nếu HS được bồi dưỡng kỹ năng tư duy phản biện tốt các em sẽ tránh được cách nhìn “ thiên lệch, bóp méo, rời rạc… hay hết sức định kiến” [17.tr. 9], đồng thời sử dụng thành thạo kỹ năng tư duy phản biện sẽ giúp HS “ đi đến những kết luận và giải pháp có lý lẽ, kiểm nghiệm chúng bằng những tiêu chí và chuẩn mực thích hợp” [17.tr.9]. Tuy nhiên đây là một thao tác tư duy cao đòi hỏi những học sinh có phẩm chất và năng lực học tốt theo đúng tiêu chí của “học sinh giỏi” mới có thể thực hiện một cách thuần thục. Không chỉ khó, phản biện còn là thao tác khá mới và ít được chú ý đối với HS khi tiến hành hoạt động học. Vì vậy để rèn luyện tư duy phản biện trong học tập LS cho HSG chúng tôi hướng dẫn các em:

+ Xác định mục đích của lập luận được đưa ra.

+ Cách thức đưa ra lập luận là gì?

+ Có những góc nhìn nào khi đưa ra lập luận và bản thân đang đứng ở góc nhìn nào? Với góc nhìn đó lập luận được đưa ra có ưu điểm và hạn chế gì?

+ Các lập luận được đưa ra có gì mâu thuẫn với nhau không, đã lô-gích và thống nhất với nhau chưa?

Với việc bồi dưỡng tư duy phản biện cho HS, chúng tôi hướng tới mục tiêu các em sẽ đạt được các chuẩn mực trong tư duy: sự rõ ràng, đúng đắn, logic, chiều sâu, chiều rộng và sự khách quan.

Ví dụ: bồi dưỡng tư duy phản biện cho HS thông qua bài tập: Có ý kiến cho rằng “thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là do ăn may vì nó diễn ra trong bối cảnh phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh vô điều kiện”. Anh/chị hãy phản biện lại quan điểm trên.

Với bài tập trên, đầu tiên HS cần xác định mục đích của ý kiến đó là phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Đông Dương và nhân dân ta đối với cách mạng tháng Tám và cơ sở của ý kiến đó là “phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh vô điều kiện”.

Vậy có góc nhìn nào khác?

Đứng trên quan điểm thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, có thể đưa ra kết luận: quần chúng nhân dân Việt Nam mới là động lực cơ bản của cách mạng dưới sự định hướng đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương. Vì vậy thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 phải là thành quả của dân tộc Việt Nam anh hùng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây mới là nhân tố quyết định thắng lợi chủ yếu.

Căn cứ để khẳng định như vậy là: nhân dân ta có truyền thống yêu nước, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm, tích cực tham gia lực lượng cách mạng, trực tiếp tham gia Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong tháng Tám 1945. Đảng Cộng sản Đông Dương là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với cách mạng Việt Nam: Đảng đề ra đường lối đúng đắn, xây dựng, chuẩn bị mọi mặt cho cách mạng qua các phong trào cách mạng 1930 -1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng, tổ chức phát động quần chúng chớp thời cơ phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh để khởi nghĩa giành chính quyền.

Mặt khác khi Nhật đầu hàng Đồng minh chỉ có ba nước giành độc lập là Inđônxia, Việt Nam, Lào, trong khi các nước khác ở khu vực Đông Nam Á cũng là thuộc địa của phát xít Nhật nhưng không giành được độc lập.

Như vậy thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 ở Việt Nam hoàn toàn không phải “do ăn may”, cũng không phải Phát xít Nhật “đầu hàng Đồng minh” mà nguyên nhân quyết định thắng lợi của cách mạng là nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

Xem tất cả 155 trang.

Ngày đăng: 07/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí