Phương Hướng Đổi Mới Kiểm Tra Đánh Giá Kết Quả Học Tập Của Học Sinh Trong Dạy Học Lịch Sử .


1.2. Phương hướng đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh trong dạy học Lịch sử.

Xuất phát từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên chúng tôi thấy rằng đổi mới hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cần theo phương hướng sau:

­ Trước hết để đổi mới kiểm tra, đánh giá cần phải đổi mới quan điểm nhận thức tức là phải có quan niệm đúng về kiểm tra, đánh giá.

­ Thứ hai, cần phải đổi mới nội dung kiểm tra, đánh giá: nội dung kiểm tra, đánh giá phải toàn diện về mục tiêu dạy học bộ môn, mức độ nhận thức của học sinh và nội dung kiến thức lịch sử.

­ Thứ tra, đánh giá.

ba cần tiến hành đổi mới hình thức, phương pháp kiểm

­ Cuối cùng là phải tổ chức tốt, hiệu quả kiểm tra, đánh giá ở các khâu: ra đề, coi, chấm kiểm tra, thi.

Tóm lại, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của học sinh có vai trò quan trọng. Nó là khâu không thể thiếu trong quá trình dạy học và là một biện pháp thiết thực để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.

Hiện nay, thực trạng đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.

của học sinh cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực đặc biệt là trong quan niệm của giáo viên bộ môn. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những chuyển biến ban đầu và không đồng bộ, nó khó có thể tạo ra bước chuyển mạnh mẽ tác động tích cực tới việc nâng cao chất lượng dạy học.

Từ những lý luận chung về kiểm tra, đánh giá và từ thực trạng vấn

Đổi mới việc kiểm tra, đánh giá kết quả học tập lịch sử của học sinh trong dạy học Lịch sử Việt Nam - Nguyễn Thị Quỳnh Trang - 6

đề kiểm tra, đánh giá kết quả

học tập lịch sử ở

trường phổ

thông mà

chúng tôi đã đề cập tới ở trên, phải nhận thấy rằng yêu cầu cấp thiết là phải tiến hành đổi mới khâu kiểm tra, đánh giá một cách toàn diện, đồng bộ từ nhận thức đến nội dung, hình thức, phương pháp… Đổi mới kiểm


tra, đánh giá đã trở thành vấn đề không chỉ với giáo viên, học sinh, các nhà quản lý giáo dục mà còn có quan hệ chặt chẽ với xã hội trong đó trước hết là phụ huynh học sinh.


CHƯƠNG 2

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP LỊCH SỬ CỦA HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ NĂM 1954 ĐẾN 1975 Ở LỚP 12 THPT (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cở bản của “Lịch sử Việt Nam từ 1954 đến 1975” trong sách giáo khoa lớp 12 THPT.

2.1.1. Vị trí.

Từ năm học 2008 tất cả các lớp ở THPT được học tập lịch sử theo chương trình mới.

* Lớp 10: Chương trình lịch sử

thế

giới từ

nguyên thủy đến hết

phần một của lịch sử thế gới cận đại. Phần lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XIX

* Lớp 11: Lịch sử thế giới từ phần hai của lịch sử thế giới cận đại đến hết chiến tranh thế giới thứ hai. Phần lịch sử Việt Nam: từ khi thực dân Pháp xâm lược đến cuộc khai thác thuộc địa lần hai.

* Lớp 12

Kiến thức lịch sử được cấu tạo thành 2 phần:

­ Phần một: Lịch sử thế giới hiện đại từ năm 1945 đến năm 2000.

­ Phần hai: Lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến năm 2000. Phần Lịch sử Việt Nam gồm 5 chương:

+ Chương I: Việt Nam từ năm 1919 đến 1930.

+ Chương II: Việt Nam từ năm 1930 đến 1945.

+ Chương III: Việt Nam từ năm 1945 đến 1954.

+Chương IV: Việt Nam từ năm 1954 đến 1975.

Nội dung cơ bản của chương này là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu

nước của nhân dân ta từ

năm 1954 đến năm 1975. Trong thời kỳ

đó đất

nước ta bị chia làm hai miền: miền Bắc vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, chi


viện cho miền Nam vừa chiến đấu chống đế quốc Mỹ; miền Nam làm

nhiệm vụ tiền tuyến trực tiếp đương đầu với đế giành độc lập dân tộc.

quốc Mỹ và tay sai để

+ Chương V: Việt Nam từ năm 1975 đến 2000.

Tóm lại, trong chương trình lịch sử ở bậc THPT, phần lịch sử lớp 12 nói chung, lịch sử Việt Nam nói riêng và đặc biệt là giai đoạn lịch sử Việt Nam từ 1954 đến 1975 có một vị trí vai trò quan trọng trong việc cung cấp kiến thức và hình thành nhân cách cho học sinh. Học lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 giúp cho học sinh biết và hiểu rõ một giai đoạn lịch sử quan trọng và hào hùng của dân tộc. Trong chương IV “Việt Nam từ năm 1954 đến 1975.” học sinh không những được khắc sau hơn các khái niệm đã

học trước đó như chiến tranh nhân dân, chiến lược, sách lược, tổng tiến

công… mà còn được tiếp cận với các khái niệm mới như chiến lược chiến tranh, thực dân kiểu mới, xã hội chủ nghĩa…nhằm giúp các em hoàn thiện hệ thống tri thức của mình. Cuộc kháng chiến chống Mỹ thời kỳ này có tác động rất lớn tới tư tưởng tình cảm của học sinh. Nó giáo dục cho học sinh về lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Hơn nữa những kiến thức được học trong chương này còn giúp cho học sinh phát triển các kỹ năng phân tích, so sánh, khái quát, kỹ năng thực hành… Có thể thấy, nó có tác dụng với học sinh về cả ba mặt: kiến thức, kỹ năng và thái độ.

2.1.2. Mục tiêu.

Sau khi học xong chương này học sinh cần đạt được:

* Về kiến thức

Từ năm 1954, Việt Nam bị chia cắt làm hai miền miền Bắc và

miền Nam với hai chế độ chính trị­ xã hội hoàn toàn khác nhau. Miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm nhiệm vụ hậu phương đối với tiền tuyến miền Nam. Còn miền Nam tiến hành cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất đất


nước.

Ngay từ năm 1954 Mỹ đã liên tiếp thực hiện các âm mưu, thủ đoạn

xâm lược của chúng

ở miền Nam Việt Nam. Bắt đầu từ

năm 1961 đến

năm 1973 Mỹ liên tiếp áp dụng các chiến lược chiến tranh ở Việt Nam với quy mô và mức độ ngày càng tăng từ “chiến tranh đặc biệt” (1961­ 1965), đến “chiến tranh cục bộ” (1965­ 1968) rồi “Việt Nam hóa chiến tranh” (1968­1973).

Tuy nhiên, nhân dân ta ở hai miền Nam­ Bắc đã chiến đấu anh dũng đánh bại liên tiếp các chiến lược chiến tranh này. Riêng nhân dân miền Bắc trong những năm 1965­ 1973 đã vừa chiến đấu vừa sản xuất, thực hiện nghĩa vụ hậu phương chi viện cho tiền tuyến miền Nam và nghĩa vụ quốc tế với cách mạng Lào và Campuchia. Những chiến thắng của quân và dân ta đã buộc Mỹ năm 1973 phải ký hiệp định Pari về Việt Nam, rút hết quân về nước.

Từ sau hiệp định Pari, quân dân miền Bắc ra sức khôi phục kinh tế, chi viện cho miền Nam. Nhân dân miền Nam tích cực đấu tranh, chuẩn bị lực lượng tạo thế và lực tiến tới Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước vào năm 1975.

Học tập chương này, học sinh cần nhận thấy những âm mưu và thủ đoạn của Mỹ và tay sai khi tiến hành xâm lược Việt Nam. Đồng thời thấy được vai trò của cách mạng miền Bắc, cách mạng miền Nam và mối quan hệ của cách mạng hai miền trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

* Về kỹ năng.

­ Học tập những kiến thức lịch sử trên sẽ giúp học sinh phát triển các kỹ năng phân tích, đánh giá, so sánh các vấn đề, sự kiện lịch sử.

­ Rèn luyện các kỹ hình… trong học tập.

năng sử

dụng sách giáo khoa, quan sát kênh

­ Ngoài ra còn giúp học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành bao gồm


có thực hành bộ trong cuộc sống.

môn như

lập bảng, vẽ

bản đồ…và kỹ

năng thực hành

* Về thái độ:

Thông qua những kiến thức trên đã có tác dụng lớn đến giáo dục tư tưởng đạo đức và nhân cách cho học sinh:

­ Lên án những tội ác của đế quốc Mỹ và tay sai trong cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở hai miền đất nước Việt Nam; bồi dưỡng tinh thần yêu nước, đoàn kết dân tộc, cảm thông với nhân dân miền Nam.

­ Bồi dưỡng cho thế hệ trẻ lòng yêu nước, tự hào về những thắng lợi oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay.

­ Giáo dục cho các em thái độ

kính trọng đối với các vị

anh hùng

dân tộc những người đã hi sinh cho nền độc lập nước nhà.

­ Nêu cao tinh thần đoàn kết, liên minh chiến đấu của ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Tóm lại, học tập Lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 học sinh không chỉ nắm được các kiến thức cơ bản của giai đoạn lịch sử đó mà còn giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm, đạo đức và phát triển các năng lực nhận thức, năng lực thực hành cho học sinh.

2.1.3. Nội dung cơ bản cần kiểm tra, đánh giá trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến 1975.

Nội dung cơ bản cần kiểm tra, đánh giá trong dạy học lịch sử Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 có thể chia làm ba giai đoạn

* Giai đoạn 1954­ 1965

Với âm mưu chia cắt lâu dài nước ta, Mỹ đã không chịu kí vào hiệp

định Giơnevơ

(1954), sau đó nhanh chóng gạt chân Pháp, giúp đỡ

Ngô

Dình Diệm dựng lên chính quyền Sài Gòn để biến miền Nam Việt Nam

thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ

quân sự

của Mỹ ở

Đông Dương và


Đông Nam Á. Do âm mưu và hành động của Mỹ­ Diệm nên nước ta bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị­ xã hội khác nhau.

Trong học tập lịch sử Việt Nam giai đoạn này học sinh cần đối

chiếu, so sánh những nhiệm vụ Nam­ Bắc ở từng giai đoạn ngắn:

và thành tựu của cách mạng hai miền

­ Ở miền Bắc, từ tháng 7/1954 đến năm 1957 tiến hành cải cách

ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, sau đó bắt tay vào cải tạo quan hệ sản xuất và bước đầu phát triển kinh tế­ văn hóa (1958­1960); trong khi đó miền Nam đấu tranh gìn giữ hòa bình, tiến tới “Đồng khởi” (1954­ 1960).

­ Tiếp đó, miền Bắc đề ra và thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội (1961­ 1965); trong khi đó miền Nam chiến đấu chống chiến lược “chiến tranh đặc bit” của đế quốc Mỹ.

Cách mạng mỗi miền tuy có nhiệm vụ chiến lược khác nhau, song đều có chung một nhiệm vụ thiêng liêng là kháng chiến chống Mỹ, cứu nước để tiến tới thống nhất Tổ quốc.

Đặt biệt trong cách mạng miền Nam từ 1954 đến 1965 học sinh

cần khái quát được đặc điểm nổi bật của cuộc đấu tranh chống Mỹ: Mỹ luôn đưa ra nhiều âm mưu, thủ đoạn, chiến lược chiến tranh nhằm đàn áp cách mạng song chẳng bao lâu sau thì đều bị sụp đổ. Sự sụp đổ đó gắn liền với các thắng lợi lớn của nhân dân miền Nam. Ví dụ như, giai đoạn 1961­ 1965, Mỹ đưa ra chiến lược “Chiến tranh đặc bit”, với một loạt chiến thắng của ta ở Ấp Bắc, An Lão, Ba Gia, Đồng Xoài đã làm thất bại chiến lược này.

* Giai đoạn 1965­ 1973

Sau thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, Mỹ vẫn

không từ bỏ âm mưu xâm lược miền Nam nhằm khuất phục nhân dân ta. Từ giữa năm 1965 Mỹ bắt đầu mở rộng quy mô cuộc chiến tranh chiến


lược, trực tiếp đưa quân viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam Việt Nam, thực hiện chiến lược “Chiến tranh cc bộ” (1965­ 1968), sau đó là “Vit Nam hóa chiến tranh” và “Đông dương hóa chiến tranh”.

Ở miền Nam từ giữa năm 1965 đến năm 1973 đã trải qua hai thời kỳ chiến đấu chống chiến tranh xâm lược của Mỹ. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 tuy có những hạn chế nhất định nhưng vẫn là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu bước ngoặt của cuộc kháng chiến: nó làm phá sản chiến lược “Chiến tranh cc bcủa Mỹ, buộc Tổng thống Ních­xơn phải tuyên bố “Phi Mhóa chiến tranh”.

Còn

ở miền bắc từ

năm 1965 đến 1973 đã trải qua hai thời kỳ

chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ. Trận “Đin Biên Phtrên không” cuối năm 1972 trên bầu trời Hà Nội và cảng Hải Phòng là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân dân ta. Sau chiến thắng này của ta Mỹ buộc phải ký hiệp định Pari (27/1/1973), chấp nhận rút hết quân đội viễn chinh Mỹ về nước, chấm dứt chiến tranh xâm lược miền Nam Việt Nam.

* Giai đoạn 1973­ 1975

Với Hiệp định Pari năm 1973 về Việt Nam, Mỹ phải cam kết tôn

trọng độc lập, chủ

quyền và toàn vẹn lãnh thổ

của Việt Nam, phải rút

quân về nước vô điều kiện. Song Mỹ vẫn giữ hơn 2 vạn cố vấn quân sự, lập ra Bộ chỉ huy quân sự, tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho chính quyền Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn với sự giúp đỡ của Mỹ đã tiến hành chiến dịch “tràn ngp lãnh th, lên tiếp mở các cuộc hành quân “bình định, ln chiếm” các vùng mới giải phóng của ta.

Từ năm 1973 đến năm 1975, miền Bắc được trở lại hòa bình, cách mạng thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế­ văn hóa, dồn sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

Ở miền Nam, tận dụng điều kiện thuận lợi sau hiệp định Pari, ta đẩy mạnh đấu tranh chống địch “tràn ngp lãnh thổ”, tạo thế và lực mới để chuẩn bị giái phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Cuộc Tổng tiến

Xem tất cả 133 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí