Vai Trò Điều Tiết Của Chính Phủ Đối Với Thị Trường Vốn


phát hành các loại trái phiếu chính phủ trung dài hạn để huy động vốn. Ngoài ra, các cơ quan của chính phủ cũng phát hành trái phiếu được chính phủ bảo lãnh để vay nợ. Bên cạnh đó, cũng tồn tại các loại trái phiếu do chính quyền các địa phương phát hành nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu đầu tư tại địa phương.

2. Các doanh nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp tài chính (bao gồm các trung gian tài chính như các ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, công ty tài chính v.v…) và các doanh nghiệp phi tài chính (bao gồm các hãng kinh doanh, các công ty cổ phần). Các doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu, trái phiếu công ty, các bảo đảm và niêm yết các công cụ này trên thị trường tập trung.

3. Các doanh nghiệp nước ngoài cũng có thể phát hành và đưa chứng khoán của họ vào giao dịch tại thị trường của một nước sở tại. Thậm chí có công ty niêm yết chứng khoán của họ đồng thời trên nhiều Sở giao dịch chứng khoán ở các nước khác nhau.

c) Các tổ chức cung cấp dịnh vụ tài chính trên thị trường vốn


Các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính trên thị trường vốn bao gồm:


Thứ nhất, các sở giao dịch chứng khoán tập trung. Các sở giao dịch tập trung tổ chức việc giao dịch chứng khoán cho các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức. Tham gia vào hoạt động này còn liên quan tới hoạt động môi giới chứng khoán của các công ty chứng khoán hoặc các nhà môi giới tự do là thành viên của sở giao dịch chứng khoán. Để nâng cao hiệu quả giao dịch chứng khoán, các sở giao dịch đưa ra các qui tắc giao dịch chứng khoán được chuẩn hóa để thúc đẩy việc thực hiện giao dịch nhanh chóng và giảm chi phí giao dịch.

Thứ hai, các công ty chứng khoán, hay còn được gọi là ngân hàng đầu tư. Các công ty chứng khoán thúc đẩy hoạt động phát hành chứng khoán của các công ty, để tạo hàng hóa giao dịch trên thị trường, đồng thời cũng thực hiện vai trò là nhà tạo lập thị trường đối với các loại chứng khoán khác nhau để cung cấp thanh khoản cho các loại chứng khoán. Các công ty chứng khoán cũng thực hiện các hoạt động tư vấn đầu tư, định giá chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng. Hoạt

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.


động này cung cấp dịch vụ định giá tài sản chuyên nghiệp, giúp thị trường vốn hoạt động hiệu quả hơn, ngăn chặn sự biến động giá quá mức trên thị trường vốn.

Phát triển thị trường vốn Việt Nam - 5

Thứ ba, các tổ chức đánh giá hạn mức tín nhiệm (credit rating agency): các tổ chức này sẽ đưa ra đánh giá về mức độ rủi ro của các công ty phát hành chứng khoán để các nhà đầu tư tham khảo khi ra quyết định đầu tư. Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm phải tuân thủ các chuẩn mực về nghề nghiệp khi đưa ra các ý kiến đánh giá về mức độ rủi ro của các công ty mà họ xếp hạng tín nhiệm. Các ý kiến đánh giá tín nhiệm của các tổ chức xếp hạng có thể giúp khách hàng tiết kiệm được các chi phí tìm kiếm và phân tích thông tin về tình hình doanh nghiệp.

Thứ tư, Trung tâm lưu ký, ngân hàng thanh toán: các tổ chức này cung cấp dịch vụ lưu ký, thanh toán chứng khoán, giúp cho việc thực hiện các giao dịch thực hiện nhanh chóng và hiệu quả.

Thứ năm, các công ty kiểm toán: các công ty này sẽ rà soát báo cáo tài chính của các công ty đại chúng để đưa ra ý kiến nhận xét về tính chính xác của các báo cáo tài chính để đảm bảo rằng các nhà đầu tư có được thông tin chính xác về công ty trước khi ra quyết định đầu tư.

1.1.4. Cấu trúc thị trường vốn


Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân loại thị trường vốn thành các thị trường bộ phận.

Thứ nhất, căn cứ vào đặc trưng của chứng khoán được giao dịch, thị trường vốn có thể được chia thành thị trường nợ và thị trường vốn cổ phần (cổ phiếu). Thị trường nợ là thị trường giao dịch, mua bán các công cụ nợ. Thực chất của các công cụ nợ là các thỏa thuận vay nợ mang tính hợp đồng theo đó người phát hành là người vay nợ theo phương thức hoàn trả cả gốc và lãi định kỳ. Người cho vay không chịu trách nhiệm về kết quả sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, người vay có trách nhiệm hoàn trả theo các cam kết được ghi trên các công cụ nợ đó. Các công cụ nợ có kỳ hạn xác định. Trên thị trường vốn, các công cụ nợ điển hình là trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Khác với thị trường nợ, thị trường vốn cổ phần là nơi mua bán các cổ


phiếu hay giấy xác nhận sự góp vốn của các cổ đông vào công ty cổ phần. Cổ phiếu xác nhận quyền và lợi ích của cổ đông đối với thu nhập và tài sản của công ty cổ phần. Các cổ đông là chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp vào kết quả hoạt động của công ty. Không giống như phần lớn trái phiếu có ngày đáo hạn xác định, cổ phiếu không có thời hạn xác định và công ty không có nghĩa vụ phải mua lại cổ phiếu từ các cổ đông. Các cổ đông chỉ có thể lấy lại tiền bằng cách bán lại cổ phiếu trên thị trường để thu hồi vốn hoặc khi công ty giải thể, dừng hoạt động.

Thứ hai, căn cứ vào đặc điểm phát hành và giao dịch các công cụ tài chính, thị trường vốn có thể được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường trong đó các công cụ tài chính được mua bán lần đầu tiên. Đây thường được coi là thị trường tạo hàng hóa cho giao dịch sau này trên thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường phát hành. Các chủ thể phát hành sẽ chỉ huy động được vốn duy nhất một lần thông qua việc chào bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các công cụ tài chính đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Việc mua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp không làm thay đổi nguồn vốn của tổ chức phát hành mà thực chất chỉ là việc chuyển nhượng quyền sở hữu các công cụ tài chính. Thị trường thứ cấp giúp xác định giá cả và cung cấp tính thanh khoản cho các loại công cụ tài chính. Hoạt động của thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có tác dụng tăng cường, bổ sung, thúc đẩy hoạt động lẫn nhau giữa hai loại thị trường.

Thứ ba, căn cứ vào đặc điểm tổ chức giao dịch, người ta có thể chia thị trường vốn thành Sở giao dịch và thị trường phi tập trung (thị trường trao tay - OTC). Tại Sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được thực hiện tại một địa điểm tập trung được gọi là sàn giao dịch. Các nhà đầu tư hoặc là trực tiếp, hoặc thông qua các nhà môi giới thực hiện các giao dịch chứng khoán trên sàn giao dịch này. Các chứng khoán phải thỏa mãn những điều kiện nhất định về qui mô và hiệu quả hoạt động kinh doanh mới được giao dịch trên Sở giao dịch và được gọi là các chứng khoán niêm yết. Khác với Sở giao dịch, thị trường phi tập trung không có địa điểm giao dịch tập trung mà các giao dịch trên thị trường phi tập trung


được diễn ra tại nhiều nơi mà chủ yếu là tại các quầy giao dịch của các ngân hàng và các công ty chứng khoán. Sự khác biệt cơ bản giữa Sở Giao dịch với thị trường phi tập trung được thể hiện trên một số khía cạnh như: không có địa điểm giao dịch mang tính tập trung giữa bên mua và bên bán, các chứng khoán được giao dịch trên thị trường phi tập trung phần lớn không đáp ứng được tiêu chuẩn niêm yết trên sở giao dịch hoặc do các công ty quyết định không niêm yết tại Sở giao dịch, cơ chế xác lập giá chủ yếu thông qua cơ chế thỏa thuận chứ không giống cơ chế đấu giá trên Sở giao dịch.

1.1.5 Các công cụ trên thị trường vốn


Các công cụ trên thị trường vốn bao gồm các công cụ nợ và vốn cổ phần với kỳ hạn thanh toán lớn hơn một năm hoặc vô hạn. Các công cụ trên thị trường vốn thường có mức độ rủi ro cao hơn và biến động giá cả lớn hơn trên thị trường tiền tệ.

Thứ nhất là cổ phiếu. Cổ phiếu là loại công cụ tài chính được biết đến nhiều nhất trên thị trường vốn. Đó là chứng chỉ hoặc các bút toán ghi sổ chứng minh sự góp vốn và lợi ích hợp pháp của người nắm giữ cổ phiếu đối với tài sản và thu nhập còn lại của một công ty cổ phần. Có thể có nhiều loại cổ phiếu khác nhau như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu ghi danh, cổ phiếu vô danh. Việc nắm giữ các cổ phiếu đem lại thu nhập cho các nhà đầu tư dưới dạng cổ tức, nhưng quan trọng hơn là kỳ vọng thu được chênh lệch giá từ việc nắm giữ cổ phiếu. Giá cả của cổ phiếu biến động trên thị trường phụ thuộc vào cung, cầu cổ phiếu, dự tính của các nhà đầu tư về hoạt động trong tương lai của công ty cổ phần.

Thứ hai, các khoản cho vay có thể chấp: đây là các khoản cho vay đối với các cá nhân hoặc các công ty kinh doanh bất động sản và dùng chính các bất động sản làm tài sản thế chấp. Để tăng tính thanh khoản cho bất động sản, các khoản cho vay này có thể được thiết kế thành các chứng khoán bất động sản với mệnh giá nhỏ thuận lợi cho việc giao dịch. Thu nhập từ bất động sản và giá trị của các bất động sản chính là các bảo đảm đối với chứng khoán bất động sản. Các khoản cho


vay có thế chấp, chứng khoán bất động sản chiếm một vị trí quan trọng trong thị trường tài chính nhà ở tại nhiều nước trên thế giới.

Thứ ba, trái phiếu công ty: đây là các thoả thuận vay nợ mang tính hợp đồng được chuẩn hoá do các công ty phát hành để vay vốn trên thị trường tài chính. Trái phiếu công tỵ có nhiều loại kỳ hạn khác nhau và có một số thuộc tính đặc biệt như trái phiếu có thể thu hồi, trái phiếu có thể chuyển đổi để đem lại những sự lựa chọn đa dạng cho các nhà đầu tư. Khác với trái phiếu chính phủ, các công ty thường trả lãi trái phiếu 2 lần trong một năm để làm tăng tính hấp dẫn của trái phiếu.

Thứ tư, trái phiếu Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ: đây là các công cụ vay nợ do chính phủ phát hành hoặc do chính phủ bảo lãnh cho các cơ quan của chính phủ phát hành để vay nợ trên thị trường. Các loại trái phiếu này có độ an toàn cao, tính thanh khoản cao và thường được sử dụng làm các trái phiếu chuẩn để phản ánh giá cả và lãi suất trên thị trường vốn.

1.1.6 Vai trò điều tiết của Chính phủ đối với thị trường vốn


Hoạt động của thị trường vốn phức tạp trên nhiều khía cạnh khác nhau. Về phương thức tổ chức thị trường, thị trường vốn có thể được tổ chức thành sở giao dịch tập trung hoặc thị trường trao tay. Về quá trình phát hành và giao dịch chứng khoán hình thành nên thị trường vốn sơ cấp và thứ cấp. Về công cụ trên thị trường vốn, ngoài các công cụ cơ bản như cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, còn có các công cụ chứng khoán phái sinh đa dạng như các chứng quyền, các quyền mua v.v… Về các chủ thể tham gia trên thị trường vốn bao gồm chính phủ và các cơ quan của chính phủ, các nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư có tổ chức trong nước và nước ngoài, các trung gian tài chính cung cấp dịch vụ trên thị trường như công ty chứng khoán, công ty xác định hạn mức tín nhiệm, các quĩ đầu tư và các cơ quan của chính phủ thực hiện chức năng điều hành, giám sát hoạt động của thị trường vốn.

Xuất phát từ sự phức tạp trong chức năng và hoạt động của thị trường vốn, có hàng loạt vấn đề tồn tại mà bản thân các thành viên tham gia thị trường không thể


tự giải quyết được một cách hiệu quả, đòi hỏi cần phải có sự can thiệp của nhà nước để thị trường hoạt động tốt. Các vấn đề này có thể được tóm tắt như sau:

Thứ nhất, tình trạng thông tin không cân xứng. Tình trạng này xảy ra khi các đối tượng tham gia vào thị trường không có đầy đủ thông tin để ra các quyết định phù hợp và gây thiệt hại cho lợi ích cho các đối tượng đó. Tình trạng thông tin không cân xứng nghiêm trọng sẽ cản trở sự hoạt động hữu hiệu và sự phát triển của thị trường vốn. Thông tin không cân xứng dẫn tới hai vấn đề trên thị trường vốn.

Đầu tiên là vấn đề lựa chọn đối nghịch. Lựa chọn đối nghịch xảy ra khi người mua không có đủ thông tin dẫn đến việc mua phải những hàng hoá có chất lượng tồi, không đáp ứng được nhu cầu của người mua. Ví dụ, nhà đầu tư có thể mua một loại cổ phiếu hoặc trái phiếu công ty chất lượng thấp với giá cao, sau đó bị thua lỗ từ khoản đầu tư này.

Tiếp theo là vấn đề rủi ro đạo đức hay còn gọi là tâm lý ỷ lại. Xuất phát từ đặc điểm có sự tách biệt giữa quyền sở hữu với quyền quản lý trong các công ty cổ phần trên thị trường cổ phiếu, ban giám đốc công ty có thể hành động vì lợi ích của ban giám đốc gây thiệt hại cho lợi ích của các cổ đông (ban giám đốc có thể che dấu hoặc làm giảm lợi nhuận của công ty). Rủi ro đạo đức cũng xảy ra đối với thị trường vay nợ. Đó là do tình trạng bất cân xứng về lợi ích, người đi vay có động lực tham gia vào các hoạt động quá rủi ro theo kiểu “được ăn cả, ngã về không”. Tức là nếu hoạt động đầu tư có hiệu quả thì người vay sẽ được hưởng phần lớn kết quả, nhưng nếu xảy ra rủi ro, người cho vay lại chịu phần lớn thiệt hại.

Lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức tác động tiêu cực tới hoạt động và sự phát triển của thị trường vốn. Để hạn chế các tình trạng này, chính phủ có thể điều hành bằng cách yêu cầu các công ty công bố thông tin, yêu cầu tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán, yêu cầu phải thực hiện các điều khoản hạn chế trong việc vay nợ [28].

Thứ hai, tình trạng đầu cơ, các hành vi gian lận trên thị trường. Tình trạng đầu cơ thường gắn liền với hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán. Hoạt động đầu cơ của các nhà đầu tư là tổ chức và cá nhân dẫn đến tình trạng bong bóng giá


tài sản tài chính, theo sau là những đợt khủng hoảng tài chính, gây mất ổn định cho nền kinh tế. Thị trường chứng khoán cũng khuyến khích các hành vi gian lận do xung đột về lợi ích gây nên như giao dịch nội gián, công bố thông tin sai trái, thao túng giá thị trường [80]. Để ngăn chặn tình trạng đầu cơ, tập trung rủi ro, cần có các qui định thận trọng để điều chỉnh hoạt động của các trung gian tài chính tham gia đầu tư vào thị trường vốn như các ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, quĩ đầu tư, công ty bảo hiểm v.v…

Thứ ba, vấn đề bảo vệ nhà đầu tư. Các qui định bảo vệ nhà đầu tư sẽ giúp các công ty mở rộng khả năng huy động vốn. Các công ty có thể huy động vốn từ hai nguồn là vay nợ hoặc phát hành cổ phiếu mới. Những nước có hệ thống tài chính cung cấp cho các công ty những điều kiện thuận lợi để huy động vốn từ bên ngoài sẽ có giá chứng khoán cao hơn và qui mô thị trường chứng khoán lớn hơn. Việc bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn sẽ cho phép các nhà đầu tư cung cấp vốn với các điều khoản thuận lợi hơn, điều này giúp cho việc giảm chi phí huy động vốn của công ty. La Porta và các tác giả, Djankov và các tác giả đã tìm thấy bằng chứng ở những nước có sự bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn có tác động mạnh tới qui mô và sự phát triển của thị trường vốn [96], [109]. Mức độ bảo vệ nhà đầu tư được thể hiện trong các qui định về công bố thông tin, các ràng buộc trách nhiệm của ban giám đốc, và mức độ dễ dàng của các cổ đông thực hiện kiện ban giám đốc ra toà án. Các biện pháp nâng cao mức độ bảo vệ nhà đầu tư đòi hỏi các qui định về hoạt động công bố thông tin tốt hơn, nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của công ty, và qui định rõ quyền của các cổ đông đối với những hành vi sai trái của ban giám đốc [76],[77],[78].

Như vậy, việc điều hành của chính phủ đối với hoạt động của thị trường vốn có thể được phân loại thành bốn nội dung sau đây:

1. Các qui định về tổ chức thị trường, thành viên tham gia thị trường


2. Các qui định về phát hành chứng khoán


3. Các qui định về giao dịch


4. Các qui định về công bố thông tin và giám sát thị trường.


Ngoài ra, còn có các qui định về nền tảng pháp lý khác sẽ được phân tích ở mục riêng về điều kiện phát triển thị trường vốn.

1.2 Những vấn đề cơ bản về phát triển thị trường vốn


1.2.1 Khái niệm về phát triển thị trường vốn


Như đã phân tích ở phần 1.1.2, mối liên hệ giữa phát triển thị trường tài chính và phát triển kinh tế đã được chứng minh trong các nghiên cứu thực nghiệm và đặc biệt có ảnh hưởng ở các nước đang phát triển. Do vậy, phát triển thị trường tài chính trong đó có thị trường vốn là hoạt động có cơ sở khoa học vững chắc. Một vấn đề đặt ra ở đây là chiến lược và các biện pháp phát triển thị trường vốn nên được thực hiện như thế nào.

Ở các nước phát triển, trình tự phát triển của thị trường tài chính xảy ra như sau: sự phát triển của các ngân hàng thương mại diễn ra đầu tiên, theo đó là thị trường sơ cấp cho các công cụ nợ của chính phủ, thị trường sơ cấp cho cổ phiếu, tiếp theo là các loại thị trường thứ cấp, và cuối cùng là các thị trường chứng khoán phái sinh. Quá trình phát triển này được cho là xảy ra một cách tự nhiên theo trình tự phát triển thị trường tài chính của các nước. Nhược điểm cơ bản của quá trình này là không cho phép có được sự hỗ trợ lẫn nhau giữa thị trường và các tổ chức tài chính trong quá trình phát triển do giới hạn của trình tự phát triển theo lịch sử đặt ra.

Một cách tiếp cận khác về phát triển thị trường tài chính, đó là chính sách phát triển cần phải dựa vào chức năng và hoạt động của thị trường tài chính để hoạch định và thực thi. Phát triển thị trường vốn bên cạnh việc nâng cao hiệu quả huy động nguồn lực, còn cho phép thực hiện các chức năng khác như san sẻ và quản lý rủi ro, thúc đẩy hội nhập quốc tế, cũng như nâng cao hiệu quả điều hành và giám sát của các cơ quan quản lý. Phát triển thị trường vốn là thúc đẩy, nâng cao các chức năng và hoạt động của thị trường vốn trong nền kinh tế [92]. Các chương trình nâng cao năng lực thị trường vốn của ADB dành cho các nước đang phát triển ở Châu Á cũng có chung mục tiêu này. Đó là phát triển thị trường vốn nhằm vào thúc đẩy một thị trường đa dạng, cạnh tranh để nâng cao lòng tin của nhà đầu tư trong và ngoài nước,

Xem tất cả 199 trang.

Ngày đăng: 01/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí