có điều kiện sử dụng phần mềm giao dịch do Thomsons Reuters cung cấp do chí phí lắp đặt và thuê bao tương đối lớn, NHNN chưa đầu tư hệ thống công nghệ thông tin phù hợp để chiết khấu dữ liệu giao dịch TTTTT. Để khắc phục tình trạng này, bên cạnh chế độ báo cáo thống kê, NHNN có yêu cầu TCTD báo cáo nhanh hàng ngày về hoạt động cho vay, gửi tiền LNH, tuy nhiên việc này tạo thêm gánh nặng báo cáo đối với các TCTD cũng như khối lượng lớn công việc đối với NHNN do việc tổng hợp số liệu này vẫn mang tính chất thủ công, vì vậy, gây ảnh hưởng tới thời gian và hiệu suất làm việc của cán bộ NHNN và TCTD. Những yếu tố trên ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả giám sát, điều hành TTTT và sử dụng công cụ CSTT để can thiệp thị trường của NHNN.
-Thứ chín, thông tin do NHNN công bố về TTTT trên Website còn hạn chế: NHNN đang gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập thông tin về tình hình TTTT, nhất là thông tin về tình hình TTLNH.
+ Trong thời gian qua, việc công bố thông tin chính thức về định hướng điều hành CSTT và các thông tin về một số nghiệp vụ tiền tệqua Website của NHNN chưa đạt hiệu quả cao do thông tin công bố chưa được cập nhật kịp thời.
+ Các thông tin về lãi suất bình quân giao dịch cho vay, gửi tiền liên ngân hàng (LSLNHBQ) và doanh số cho vay, gửi tiền liên ngân hàng do NHNN công bố chưa kịp thời: Mặc dù NHNN đã công bố định kỳ số liệu LSLNHBQ trên Website cho các thành viên có cơ sở thực hiện các giao dịch trên TTTT, tuy nhiên, thông tin về LSLNHBQ (lãi suất thực hiện giao dịch) và doanh số giao dịch liên ngân hàng thường có độ trễ khoảng 1 tuần, do đó, không có nhiều ý nghĩa trong việc giúp TCTD xác định lãi suất giao dịch trên TTTT và xây dựng kế hoạch hoạt động. Nguyên nhân là do việc thu thập thông tin đầu vào (do TCTD báo cáo) qua chế độ báo cáo thống kê thường bị trễ, không đầy đủ và còn bị sai số.
+ NHNN chưa công bố biểu số liệu tổng hợp các giao dịch lịch sử về đấu thầu trái phiếu Chính phủ qua NHNN và đấu thầu NVTTM, mới chỉ công bố các thông tin của các đợt phát hành, do đó, các thành viên gặp khó khăn trong thu thập thông tin, số liệu để phân tích, đánh giá diễn biến của các thị trường này.
+ Thông tin về thị trường ngoại hối còn hạn chế.
CHƯƠNG 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
Có thể bạn quan tâm!
- Đầu Tư Của Các Ngân Hàng Nước Ngoài Ở Các Nhtm Việt Nam
- Về Cơ Chế Hoạt Động Của Thị Trường.
- Đánh Giá Tổng Quát Về Nguyên Nhân Của Những Thành Tựu Và Hạn Chế Trong Phát Triển Thị Trường Tiền Tệ Ở Việt Nam.
- Quan Điểm Của Đại Hội Xi Đảng Cộng Sản Việt Nam Về Hoàn Thiện Thể Chế Kinh Tế Thị Trường Định Hướng Xhcn
- Định Hướng Phát Triển Tttt Ở Việt Nam Sau Khi Gia Nhập Wto
- Những Điều Kiện Cần Thiết Để Phát Triển Tttt Ở Việt Nam Sau Khi Gia Nhập Wto
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
3.1. Quan điểm và định hướng phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO
3.1.1. Những căn cứ đề xuất quan điểm và định hướng phát triển TTTT ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO
3.1.1.1.Gia nhập WTO – Cơ hội và thách thức cho phát triển TTTT ở Việt Nam
Phát triển thị trường tiền tệ để tận dụng những cơ hội và chủ động đối phó với những thách thức sau khi Việt Nam gia nhập WTO
Về cơ hội
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan của thời đại. Trong bối cảnh thế giới như hiện nay quốc gia nào muốn phát triển kinh tế đều phải gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới. Trong xu thế đó, khi hội nhập Việt Nam đang từng bước đưa nền kinh tế trở thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Như vậy, Việt Nam có nhiều có hội hợp tác quốc tế hơn, tranh thủ được sự ủng hộ của nhiều tổ chức quốc tế. Từ đó tạo ra được môi trường hòa bình hợp tác và phát triển. Đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công công cuộc đổi mới kinh tế. Hoàn thành được nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Khi tham gia vào sân chơi chung của thế giới và hiện tại Việt Nam đã trở thành viên chính thức của WTO, đây là một nhân tố chính thúc đẩy việc mở rộng và phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam. Trở thành thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp cận thị trường rộng lớn bao gồm hơn 150 nước thành viên WTO. Việc mở rộng thị trường sẽ giúp Việt Nam thực thi được Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020. Những nhân tố giúp Việt Nam thành công trong phát triển kinh tế – xã hội thời gian qua chính là những nỗ lực cải cách chính sách tài chính, tiền tệ, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào xuất khẩu và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Khi ký hiệp định thương mại với các quốc gia trên thế giới Việt Nam sẽ được hưởng các quy chế ưu đãi do chính sách tự do hóa của
các nước này quy định. Chính vì thế mà các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội để thâm nhập và tìm kiếm những thị trường mới.
Việt Nam sẽ có một vị thế mới trên trường quốc tế thông qua việc được đối xử bình đẳng với các đối tác khác cũng là thành viên của WTO, qua đó hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam được đối xử bình đẳng trên thị trường quốc tế, đặc biệt là thị trường của các nước là thành viên của WTO (hiện giờ chiếm hơn 90% tổng khối lượng thị trường toàn cầu).
Trở thành thành viên WTO, các doanh nghiệp của Việt Nam được bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình khi tham gia các quan hệ tài chính, tiền tệ quốc tế mà không bị các nước lớn chèn ép. Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với hệ thống giải quyết các tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO.
Gia nhập WTO, thực tế Việt Nam đã chấp nhận thực hiện các cam kết quốc tế về mở của thị trường, thực hiện thuận lợi hóa, tự do hóa thương mại và đầu tư giữa các quốc gia. Việc thực hiện các cam kết này cũng đồng nghĩa với việc hệ thống pháp luật của Việt Nam phải phù hợp với các thông lệ quốc tế và ngày càng phải minh bạch hơn. Đây sẽ là một nhân tố quan trọng làm tăng tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Các nhà đầu tư sẽ có tâm lý yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư kinh doanh tại Việt Nam Chính vì vậy Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tranh thủ được nhiều nguồn tài chính, tín dụng từ cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế, các tổ chức phi Chính Phủ và các nước lớn trên thế giới.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã mang lại cho Việt Nam cơ hội toàn diện về thị trường hàng hóa, thị trường dịch vụ, thị trường vốn và thị trường lao động. Với một không gian kinh tế mới rộng lớn hơn rất nhiều, với hệ thống cơ chế chính sách pháp luật minh bạch tham gia vào quá trình toàn cầu hóa sẽ giúp Việt Nam thúc đẩy cải cách kinh tế trong nước làm sâu sắc hơn các thành quả của cải cách. Quá trình mở cửa của Việt Nam với việc tự do hóa thương mại Việt Nam sẽ phải nỗ lực hơn nữa để cải cách các chính sách tài chính, tiền tệ đáp ứng được luật chơi quốc tế. Từ đó bổ sung được những nguồn lực mà trong nước còn thiếu còn yếu như vốn, công nghệ kỹ năng quản lý.
Các nhà sản xuất kinh doanh trong nước sẽ được đặt trong một môi trường cạnh tranh năng động hơn và họ cũng phải tự mình vươn lên tự mình hoàn thiện mình để có thể tham gia vào sân chơi chung của nền kinh tế thế giới. Kết quả là các
nhân tố nói trên sẽ tạo ra động lực quan trọng giải phóng sức sản xuất trong nước, thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn tiềm năng sẵn có của nước ta như: tài nguyên, lao động, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Về thách thức
Bên cạnh những cơ hội khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng sẽ phải đương đầu với vô số những thách thức đặt ra.
Trước hết đó là sự cạnh tranh sẽ trở nên mạnh mẽ và khốc liệt hơn. Dưới tác động của quá trình hội nhập và những tiến bộ về thông tin, biên giới giữa các thị trường sẽ bị mờ dần và “lợi thế sân nhà” sẽ dần bị xóa bỏ.
Hàng hóa Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với hàng hóa nước các nước trong khu vực không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay cả thị trường nội điạ khi các hàng rào thuế quan được dỡ bỏ. Sự vận động của các luồng tài chính trên thế giới mạnh mẽ hơn. Nguồn vốn thế giới sẽ sẵn sàng chảy vào những nơi có điều kiện đảm bảo an toàn và sinh lợi cao.
Khung pháp lý của WTO đã trở thành khung pháp lý chung về kinh tế thương mại trên thị trường thế giới, nó điều tiết rất rộng, bao gồm cả thương mại dịch vụ và đầu tư, sở hữu trí tuệ và dự báo còn tiếp tục mở rộng phạm vi điều chỉnh trong những vòng đàm phán sắp tới. Hội nhập kinh tế quốc tế, gia nhập WTO và các tổ chức kinh tế quốc tế khác cũng có nghĩa là Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ của một thành viên, phải chấp nhận các nguyên tắc pháp lý của các tổ chức này. Để đáp ứng các cam kết thực hiện các luật chơi như: đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia, công khai, minh bạch… hệ thống pháp luật của Việt Nam phải điều chỉnh rất nhiều. Việt Nam phải ban hành nhiều văn bản pháp luật mới. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với hệ thống pháp luật của Việt Nam là hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ và khung pháp lý của WTO quá đồ sộ và mới mẻ đối với Việt Nam. Đồng hành với việc cải cách các chính sách pháp luật thì một trong những thách thức lớn nhất khi hội nhập kinh tế quốc tế là Việt Nam cần tiến hành cải cách cơ cấu kinh tế trong nước để theo kịp với các yêu cầu hội nhập. Cải cách cơ cấu kinh tế sẽ giúp cho Việt Nam theo kịp với các đòi hỏi của thị trường thế giới và hạn chế thấp nhất những đổ vỡ, thua thiệt khi hội nhập. Thực tế, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam diễn ra chậm chạp, vừa mang tính tự phát, vừa mang tính “kế hoạch hóa”.
Cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế và bộ máy quản lý kinh tế vĩ mô của nước ta chưa thích nghi kịp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế còn lạc hậu, chưa phát huy được thế mạnh và những lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng kinh tế. Cơ cấu kinh tế nông thôn vẫn chủ yếu là nông nghiệp, chiếm tới 70,3%. Vùng núi, vùng sâu, vùng dân tộc, kinh tế còn chậm phát triển, kết cấu hạ tầng thiếu thốn, lạc hậu, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, dân trí thấp. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước chưa được phát huy một cách có hiệu quả. Do nền kinh tế của chúng ta chưa có bề dầy về kinh tế thị trường nên có chế thị trường chưa phát huy được đầy đủ tính tích cực và tính tự điều tiết của nó.
Sự ổn định kinh tế vĩ mô chưa vững chắc, các vấn đề về tài chính, tiền tệ, ngân hàng chưa lành mạnh. Tham nhũng trong bộ máy nhà nước đang trở thành vấn đề quốc nạn, hiện tượng thất thoát lãnh phí trong việc phân bổ nguồn lực của nhà nước chưa suy giảm và ngày càng có nguy cơ gia tăng. Việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại vừa có hiện tượng buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào hoạt động của các doanh nghiệp. Sự yếu kém này đang là những cản trở đối với sự phát triển của các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
- Sức cạnh tranh của nền kinh tế và các doanh nghiệp thấp. Thực tế cho thấy tốc độ tăng trưởng của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực nhưng khoảng cách giữa Việt Nam và các nước ngày càng doãng ra, nguy cơ tụt hậu ngày càng lớn. Cho đến nay, Việt Nam vẫn là nước được đánh giá là có khả năng cạnh tranh thấp, sức mua và năng lực tích luỹ tái đầu tư, mở rộng sản xuất còn hạn chế. Trình độ kỹ thuật và công nghệ thấp trong khi nguồn vốn đầu tư phát triển không đủ đáp ứng các nhu cầu của sản xuất.
3.1.1.2.Bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam sau khi gia nhập WTO và những yêu cầu về phát triển thị trường tiền tệ
Thị trường tài chính – tiền tệ Việt Nam đang phải đối mặt với những cơ hội và thách thức của xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, điều đó có nghĩa là các ngân hàng Việt Nam phải trực tiếp cạnh tranh với các ngân hàng đa quốc gia đầy tiềm lực ngay tại sân chơi của mình. Những biểu hiện của xu thế toàn cầu hoá thị trường tài chính đang diễn ra trên thế giới, phản ánh sự tác động ngày càng rõ rệt sẽ đến đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, đó là xu hướng giảm nhẹ quy chế, cơ chế tỷ giá thả nổi và đồng tiền chuyển đổi, sự phát triển cao của công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin, các công cụ tài chính phát triển đa dạng, tính bất ổn định trong chu chuyển tài chính thế giới, mức độ cạnh tranh trên thị trường tài chính quốc tế ngày càng gay gắt và mức độ rủi ro ngày càng cao, xu hướng tích tụ và tập trung tư bản diễn ra mạnh mẽ, nhiều ngân hàng lớn sáp nhập với nhau để tăng sức mạnh tài chính và khả năng cạnh tranh, các tổ chức tài chính lớn và các công ty xuyên quốc gia hoạt động trên phạm vi toàn cầu và có sức cạnh tranh lớn. Với những nhân tố tác động đó, cơ hội đối với thị trường tài chính – tiền tệ Việt Nam trong quá trình hội nhập là có thể khái quát thành năm nội dung.
Thứ nhất là đang có sự mở ra cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế về các vấn đề tài chính tiền tệ, các diễn biến kinh tế, các chiến lược vĩ mô và qua đó nâng cao được uy tín và vị thế của hệ thống ngân hàng Việt Nam trên trường quốc tế.
Thứ hai là nếu tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, ngành Ngân hàng Việt Nam có điều kiện tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ các nước có trình độ phát triển cao.
Thứ ba, thông qua hội nhập quốc tế, Việt Nam có cơ hội tăng cường, phát triển ngành ngân hàng bằng cách chuyên môn hoá sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, tăng cường hiệu quả sử dụng các nguồn vốn, tiếp cận được các dịch vụ ngân hàng tiên tiến.
Thứ tư là trong tương lai sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam nhằm đáp ứng các điều kiện hội nhập và thực hiện cam kết với các định chế tài chính, các tổ chức thương mại khu vực và toàn cầu, các cam kết này ngày càng phức tạp và chặt chẽ hơn theo xu hướng nới lỏng các hạn chế hiện tại tiến tới mở cửa và tự do hoá toàn diện.
Thứ năm là nếu tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, hệ thống ngân hàng sẽ có thêm điều kiện đào tạo đội ngũ cán bộ ngân hàng có trình độ chuyên môn cao, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn phát triển mới.
Bên cạnh đó, ngành ngân hàng Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức trong quá trình hội nhập.
Trước hết, thách thức lớn nhất đó là nền tảng kinh tế nói chung và ngành Ngân hàng nói riêng còn thấp kém, cơ sở hạ tầng, công nghệ, luật pháp, tổ chức và trình độ quản lý còn non yếu so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, mở cửa đồng nghĩa với việc chúng ta phải chấp nhận luật chơi chung, bình đẳng áp
dụng cho tất cả các nước, do đó thách thức này là rất lớn và khó khăn, đòi hỏi ngành Ngân hàng phải nỗ lực vươn lên và đẩy mạnh cải cách để phát triển.
Tiếp theo có thể thấy là qúa trình hội nhập có thể sẽ diễn ra một chiều do các ngân hàng Việt nam khó có thể mở rộng hoạt động của mình ra thị trường quốc tế, và nếu có thì hoạt động cũng ít hiệu quả.
Một thách thức nữa là hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ bị cạnh tranh gay gắt bởi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài do họ có trình độ quản lý và công nghệ cao hơn, mặt khác qui mô vốn cũng lớn hơn, ngoài ra, trong thời gian đầu để chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị phần, các ngân hàng nước ngoài có thể sẽ chấp nhận lỗ. Vì vậy, các ngân hàng Việt Nam sẽ bị đặt vào tình thế hết sức khó khăn. Vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn rất nhỏ bé, trong khi phải đương đầu để giải quyết với các khoản nợ khó đòi lớn.
Và cuối cùng, việc mở cửa, tiến tới tự do hoá trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam cùng với sự phát triển các hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam đặt ra thách thức mới về mặt điều hành, quản lý, giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
Có thể nói rằng, trong thế kỷ 21 này, xu thế toàn cầu hoá sẽ ngày càng phát triển cao hơn nhờ có những tiến bộ khoa học công nghệ đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Vì vậy, vấn đề cực kỳ quan trọng đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng là, phải tranh thủ được một cánh hiệu quả nhất các cơ hội xuất hiện trong quá trình toàn cầu hoá, đồng thời phải hạn chế được rủi ro ở mức thấp nhất. Thực tế cho thấy, trong nhiều trường hợp, có những nhân tố và chính sách có thể giúp các nước đang phát triển tranh thủ được lợi ích của toàn cầu hoá, đồng thời cũng bảo vệ các quốc gia này tránh khỏi những tác động tiêu cực của quá trình này. Đặc biệt, Chính phủ không thể không chú ý đến tầm quan trọng của việc duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô phản ánh qua tỷ lệ lạm phát vừa phải, chính sách tài khoá và tỷ giá hối đoái ổn định.
Tóm lại, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã phải chịu những tác động của xu thế toàn cầu hoá cả về mặt tích cực và mặt tiêu cực, những tác động này sẽ phát huy ngày càng mạnh mẽ hơn khi mà chúng ta ngày càng mở rộng các mối quan hệ đối ngoại và hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính toàn cầu. Tuy nhiên, những tác động này là
tất yếu và cần thiết, nếu chúng ta có chính sách tốt, làm chủ được tình thế thì sẽ có thể tối đa hoá lợi ích và giảm thiểu rủi ro.
3.1.1.3. Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và tác động của nó đến xu hướng phát triển của thị trường tiền tệ ở Việt Nam
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2008 làm cho bức tranh kinh tế nhuốm màu ảm đạm, ảnh hưởng tới mọi quốc gia, tới từng doanh nghiệp và cá nhân. Tuy nhiên, ở môt góc độ nhất định, cuộc khủng hoảng cũng tạo ra những cơ hội để Việt Nam vươn lên, rút ngắn khoảng cách đối với các nước trong khu vực, thực hiện đi tắt, đón đầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Song điều cần nhận rõ là cơ hội tự nó không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tùy thuộc vào khả năng nắm bắt và tận dụng của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tùy thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải "nhất thành bất biến" mà luôn luôn vận động và chuyển hóa. Tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức nhanh chóng phục hồi nền kinh tế là là vấn đề cấp bách đối với Việt Nam trong giai đoạn cuối và sau khủng hoảng kinh tế. Ngay từ cuối năm 2007 những dấu hiệu của khủng hoảng đã xuất hiện ở Mỹ, bắt đầu từ những bong bóng nhà đất gắn liền với các hoạt động cho vay dưới chuẩn đã khiến cho nhiều ngân hàng vướng vào các khoản nợ không có khả năng thanh toán. Sang tháng 3 năm 2008, nạn nhân khởi đầu là ngân hàng Bear Stearns. Thua lỗ, ngân hàng 85 tuổi này buộc phải bán mình cho JP Morgan với giá 10 USD/cổ phiếu, thấp hơn 10 lần mức giá niêm yết cách đó 10 năm. Tiếp sau đó, cơn bão tài chính gần như đã cuốn phăng hai đại gia cho vay lớn nhất Mỹ là Fannie Mae và Freddie Mac. Đến tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang (FED) đã chi 200 tỷ USD làm phao cứu sinh cho hai đơn vị này. Ngày 15/9/2008, công ty tài chính khổng lồ Lehman Brothers gục ngã. Trước khi sụp đổ, tiền nợ ngân hàng và tỷ lệ vốn cổ phần là 30/1, cao gần gấp ba lần quy định luật pháp cho phép. Tháng 10/2008, khủng hoảng tín dụng đã lan rộng ra toàn nước Mỹ. Với tính liên thông cao của hệ thống ngân hàng, tài chính, cuộc khủng hoảng này ngay lập tức ảnh hưởng nặng nề tới các nền kinh tế hùng mạnh ở châu Âu, châu Á như: Đức, Anh, Pháp, Nhật, Singapore v.v. Toàn bộ nền kinh tế thế giới bị đẩy vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng, hầu hết các nước đều có mức tăng trưởng âm. Thị trường chứng khoán toàn cầu mất gần một nửa giá trị so với năm liền trước với quy mô thiệt hại