Về Cơ Chế Hoạt Động Của Thị Trường.


hối phiếu đã được ban hành. Các thành viên của thị trường ngày càng đông đảo về số lượng, đa dạng về loại hình và tính chuyên nghiệp được nâng lên. Trong tháng 1/2010, NHTMCP Tiên Phong vừa được NHNN cấp phép hoạt động môi giới tiền tệ. NHNN (Sở Giao dịch) cũng đã được bổ sung chức năng này trong hoạt động. Các nghiệp vụ cơ bản của TTTT đã từng bước được đưa vào áp dụng tại Việt Nam như nghiệp vụ tiền gửi liên ngân hàng, nghiệp vụ Repo, chiết khấu, các nghiệp vụ phát sinh (Fowward, Option, SWAPS) đang được NHNN cho áp dụng thí điểm để tiến tới chính thức đưa ra thị trường.

-Thứ hai, TTTT đang phát triển tiến gần hơn với các thông lệ quốc tế.

Thành viên thị trường dần hình thành thói quen giao dịch cho vay, gửi tiền liên ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế với số tiền tối thiểu thường là 1 tỷ đồng, thời hạn tính trên cơ sở 1 năm 360 ngày; đối với các giao dịch Repo, trái phiếu Chính phù thời hạn tính trên cơ sở 1 năm 165 ngày. Tháng 5/2009, Hiệp hội các nhà kinh doanh trái phiếu do một số tổ chức tài chính ra đời là dấu hiệu chứng tỏ thị trường tài chính Việt Nam đang tiến gần hơn tới thông lệ quốc tế. Mục đích của việc thành lập Hiệp hội là nhằm trao đổi, chia sẻ thông tin, cơ hội đầu tư, kinh nghiệp phát triển thị trường thứ cấp các công cụ trả lãi cố định, xây dựng quy tắc chuẩn trong giao dịch, đào tạo thành viên, các nhà làm chính sách và hệ thống pháp luật.

NHNN đã thành lập một nhóm soạn thảo Quy tắc ứng xử trên thị trường ngoại hối liên ngân hàng gồm 8 TCTD (2 TCTDNN, 2 TCTDCP và 4 chi nhánh NH nước ngoài). Các TCTD kỳ vọng bổ sung thêm một số nội dung của Quy tắc ứng xử trên để đồng thời áp dụng đối với các giao dịch cho vay, tiền gửi và mua bán giấy tờ có giá giữa các TCTD. Sau khi Quy tắc ứng xử trên được đưa vào áp dụng, các tranh chấp phát sinh sẽ được xử lý dễ dàng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các diao dịch trên TTTT.

-Thứ ba, quy mô giao dịch ngày càng tăng.Qua diễn biến hoạt động TTTT thời gian qua có thể thấy các TTTT đều có sự cải thiện đáng kể về quy mô giao dịch. Nhìn chung, doanh số hoạt động của thị trường, đặc biệt là thị trường cho vay, gửi tiền liên ngân hàng có sự tăng trưởng rõ rệt.

- Thứ tư, vai trò điều hành TTTT của NHNN.Về cơ bản, trong thời gian qua, NHNN đã điều hành tương đối linh hoạt và đưa ra các phản ứng chính sách kịp thời nhằm điều tiết hoạt động của TTTT, giảm tác động tiêu cực của các cú sốc do các


nguyên nhân nội tại của nền kinh tế cũng như các diễn biến từ bên ngoài, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng. Thị trường là căn cứ để NHNN thực hiện quản lý vốn khả dụng của toàn hệ thống nhằm điều hành chính sách tiền tệ. Thông qua thị trường, NHNN cung ứng tiền trung ương, điều tiết lãi suất phát huy vai trò người cho vay cuối cùng. Chính vì vậy mà tỷ lệ vốn NHNN cho vay trên thị trường chiếm tỷ trọng lớn.

-Thứ năm, hoạt động của thị trường đã góp phần thúc đẩy cơ chế điều hoà vốn ngắn hạn một cách linh hoạt, trong phạm vi toàn hệ thống các ngân hàng, từ đó phát huy hiệu quả sử dụng vốn của các NHTM, tạo điều kiện cho các NHTM làm quen với nghiệp vụ quản lý vốn khả dụng trong kinh tế thị trường. Bằng hình thức điều hoà vốn tập trung, trực tiếp, đã bổ sung vốn kịp thời vốn cho các NHTM thiếu vốn, có nhu cầu vay liên ngân hàng. Đồng thời tạo điều kiện để các NHTM thừa vốn, có thể cho vay hoặc gửi, đã mang lại một nguồn thu nhập rất đáng kể, từ đó kích thích sử dụng vốn của cả ngân hàng vay và ngân hàng cho vay.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.

2.2.3.2. Hạn chế

- Thứ nhất, thiếu những tổ chức trung gian (những nhà môi giới tiền tệ chuyên nghiệp ) trên thị trường, do đó, các thành viên thị trường phải mất nhiều thời gian mới tìm được đối tác có nhu cầu phù hợp. Trong tương lai, khi quy mô thị trường phát triển thì cần phải có một hệ thống môi giới tiền tệ chuyên nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng chưa hình thành các nhà môi giới tiền tệ chuyên nghiệp là do:

Phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - 18

+ Quy mô của thị trường còn nhỏ; Số lượng các TCTD không lớn, do đó, các TCTD trực tiếp liên hệ và giao dịch với nhau; Giao dịch qua môi giới sẽ làm tăng chi phí giao dịch.

+ Thị trường thứ cấp GTCG chưa phát triển. Các sản phẩm giao dịch trên TTTT còn nghèo nàn, chưa phù hợp với nhu cầu phát triển của thị trường.

+ TTTT liên ngân hàng của Việt Nam chưa thực sự liên thông với TTTT liên ngân hàng quốc tế, các giao dịch liên ngân hàng chủ yếu diễn ra giữa các ngân hàng tại Việt Nam.

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mặc dù đã phát triển nhưng chưa hoàn thiện, nên chưa phản ảnh được chính sách toàn bộ quan hệ cung cầu về ngoại tệ của nền kinh tế, hiện tượng căng thẳng giả tạo về cung cầu ngoại tệ vẫn thường xuyên


diễn ra, do tâm lý găm giữ ngoại tệ dẫn đến các ngân hàng rất khó khăn trong việc tìm nguồn ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng của mình.

+ Nhiều TCTD chưa hiểu biết đầy đủ về hoạt động môi giới tiền tệ và chưa quan tâm đến hoạt động này.

- Thứ hai, thiếu những nhà tạo lập thị trường (market maker) những người được yêu cầu phải yết giá mua và giá bán của tất cả các công cụ đang giao dịch trên thị trường. Nhà tạo lập thị trường đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của thị trường trái phiếu. Việc thiếu nhà tạo lập thị trường là một nguyên nhân làm cho giao dịch trái phiếu trên thị trường thứ cấp chưa sôi động.

- Thứ ba, quy mô hoạt động của thị trường còn nhỏ, phụ thuộc chủ yếu vào các NHTM Nhà nước, nên khi các NHTM Nhà nước gặp khó khăn về vốn khả dụng thì hầu như thị trường không hoạt động, gây khó khăn trong thanh toán của các ngân hàng, vì vậy, thị trường không thể khai thác hết khả năng vốn giữa các ngân hàng, nên thị trường đã không phát triển mạnh hơn.

- Thứ tư, các thị trường bộ phận chưa hoàn thiện

+Thị trường Liên ngân hàng chưa hiệu quả: Trên thị trường xảy ra tình trạng diễn biến cùng chiều (các TCTD cùng thừa hoặc cùng thiếu vốn khả dụng), do đó, nhiều khi thị trường này dường như đóng băng. Các TCTD thường ưu tiên cho vay, gửi tiền trong nhóm. Điều này thể hiện rõ tình trạng phân khúc của TTTT. Việc tiếp cận thông tin cần thiết để đánh giá TCTD đối tác khi xem xét, xây dựng hạn mức tín dụng còn gặp khó khăn do một số TCTD không công bố thông tin về các báo cáo tài chính hoặc các thông tin cần thiết khác trong khi việc tiếp cận các thông tin này từ các nguồn khác cũng rất hạn chế. Thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở thị trường sơ cấp, còn thị trường thứ cấp chưa phát triển, do hàng hoá lưu thông trên thị trường còn rất hạn chế. Giao dịch không cầm đảm bảo, mà dựa vào tín chấp, hoặc bảo lãnh, có chăng tín phiếu kho bạc cũng chỉ dừng lại ở đấu thầu cho phát hành lần đầu. Các công cụ trên thị trường thứ cấp chưa xuất hiện như: CDs, thương phiếu, các công cụ phái sinh khác, thời hạn vay gồm cả ngắn hạn và trung dài hạn, dẫn đến các giao dịch ngắn hạn chưa được coi trọng, đó là nguyên nhân dẫn đến thị trường thứ cấp chưa phát triển.

+ Thị trường tín dụng còn yếu kém, tuy qui mô gia tăng nhưng chất lượng nợ còn thấp. Do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chính là hệ thống các doanh


nghiệp Việt Nam còn chưa minh bạch, năng lực tài chính thấp, trình độ quản trị điều hành yếu kém, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu, thông tin thị trường, năng lực cạnh tranh còn rất thấp.

+ Thị trường GTCG chưa phát triển: Chưa áp dụng hợp đồng tổng thể thống nhất áp dụng cho giao dịch repo, do đó phần nào làm trì trệ sự phát triển của thị trường thứ cấp GTCG. Bên cạnh đó, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam còn phải tuân thủ các quy định nội bộ từ ngân hàng mẹ về việc áp dụng Hợp đồng repo. Theo nhận xét của phần lớn các TCTD trong nước thì Hợp đồng GMRA tương đối phức tạp và khó hiểu. Nhiều nội dung trong hợp đồng GMRA điều chỉnh các giao dịch của từng phát sinh tại thị trường Việt Nam. Do đó, các TCTD trong nước chưa sẵn sàng áp dụng Hợp đồng GMRA trong các giao dịch mua, bán GTCG.

+ Thị trường phái sinh chưa phát triển: Nhiều sản phẩm phái sinh tiện tích chưa được áp dụng tại Việt Nam.

+ Thị trường ngoại hối chưa sôi động: Có thời điểm, hầu như không có giao dịch thị trường này. Quy trình thu thập thông tin về giao dịch thị trường còn thủ công (qua FAX) do đó, tạo gánh nặng báo cáo đối với cả NHNN và TCTD.

-Thứ năm, chưa có công ty định mức tín nhiệm có uy tín tại Việt Nam nên chưa tạo điều kiện cho việc phát triển và sử dụng các công cụ chuyển nhượng trong các giao dịch trên TTTT liên ngân hàng.

-Thứ sáu, chưa có hệ thống giao dịch tập trung/hệ thống thông tin tập trung giữa các thị trường bộ phận của TTTT do đó gây khó khưn cho các thành viên trong việc tìm kiếm đối tác và thông tin thị trường.

- Thứ bẩy, hoạt động điều tiết vốn trên thị trường giữa các ngân hàng còn kém hiệu quả, do các TCTD ở Việt Nam chưa có biện pháp chủ động điều tiết vốn trong hệ thống của mình một cách linh hoạt, công tác dự báo vốn khả dụng của các ngân hàng kém. Thị trường chưa phát huy được chức năng phân phối và điều chuyển vốn khả dụng, giữa các ngân hàng theo tín hiệu thị trường. Các ngân hàng chưa thực sự nhạy cảm trong việc tự cân đối vốn trong kinh doanh, khi thừa vốn, cũng chưa tìm biện pháp để cho vay, ngược lại, khi thiếu vốn cũng chưa tìm kiếm thị trường để vay mà chỉ muốn dựa vào NHNN. Quan hệ vay vốn trên thị trường thường diễn ra một chiều, nên đã hình hành nhóm các ngân hàng thường cung ứng vốn, chủ yếu là


các NHTM nhà nước, nhóm các ngân hàng có nhu cầu vay vốn là các NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

2.2.4. Về cơ chế hoạt động của thị trường.

2.2.4.1. Thành tựu

- Thứ nhất, về vai trò quản lý và điều tiết thị trường của ngân hàng Nhà nước. NHNN đã xây dựng được hệ thống các qui định an toàn hoạt động ngân hàng (phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, quản lý rủi ro, mức độ đủ vốn, hệ thống kế toán ngân hàng, minh bạch hoá hoạt động ngân hàng (qui chế kiểm toán, công bố thông tin) tương đối phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế (Basel I), đồng thời chỉnh sửa các qui định tiếp cận thị trường dịch vụ ngân hàng trong nước (các qui định về dịch vụ và nghiệp vụ ngân hàng, hình thức cung cấp dịch vụ ngân hàng, cấp phép, mở chi nhánh TCTD, qui chế cho vay của TCTD,) phù hợp với cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng, trước hết là theo Hiệp định thương mại Việt Nam

- Hoa Kỳ và yêu cầu gia nhập WTO. Khuôn khổ thể chế về hoạt động ngân hàng ngày càng thông thoáng và minh bạch hơn đã góp phần từng bước hạn chế phân biệt đối xử giữa các loại hình TCTD, giữa các TCTD trong nước và TCTD nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tiếp cận đến dịch vụ ngân hàng.

Thông qua thị trường, NHNN đã theo dõi được diễn biến cung, cầu về tiền tệ để can thiệp khi cần thiết nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, ổn định thị trường giải quyết khó khăn cân đối cho các NHTM, đồng thời phát huy vai trò người mua, bán cuối cùng và ngày càng nâng cao hiệu quả của thị trường với nền kinh tế.

- Thứ hai, về cơ bản, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã tạo được một hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động của TTTT theo hướng phát triển và hội nhập với thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Hoạt động của TTTT đã được quy định ở các văn bản quy phạm pháp luật ở các mức độ khác nhau, như Luật, Pháp lệnh và các văn bản dưới Luật khác. Hệ thống pháp lý cho hoạt động của TTTT còn tính đến khả năng hội nhập và sự tham gia ngày càng sâu của Việt Nam vào thị trường tài chính quốc tế, những quy định có tính thông lệ quốc tế phù hợp với thực tế của Việt Nam cũng được khuyến khích áp dụng. Trong thời gian qua, NHNN đã chú trọng đến phát triển TTTT thông qua việc ban hành một số văn bản nhằm hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của TTTT.


-Thứ ba, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng ngày càng gần với lãi suất thị trường và dần dần đã phản ánh được cung cầu vốn trên thị trường. Đồng thời thể hiện được mức tín nhiệm, đảm bảo của ngân hàng đi vay trên thị trường, như vậy, phần nào đó đã thể hiện cấu trúc của lãi suất thị trường.

- Thứ tư, hoạt động của thị trường đã góp phần thúc đẩy cơ chế điều hoà vốn ngắn hạn một cách linh hoạt, trong phạm vi toàn hệ thống các ngân hàng, từ đó phát huy hiệu quả sử dụng vốn của các NHTM, tạo điều kiện cho các NHTM làm quen với nghiệp vụ quản lý vốn khả dụng trong kinh tế thị trường. Bằng hình thức điều hoà vốn tập trung, trực tiếp, đã bổ sung vốn kịp thời vốn cho các NHTM thiếu vốn, có nhu cầu vay liên ngân hàng. Đồng thời tạo điều kiện để các NHTM thừa vốn, có thể cho vay hoặc gửi, đã mang lại một nguồn thu nhập rất đáng kể, từ đó kích thích sử dụng vốn của cả ngân hàng vay và ngân hàng cho vay.

- Thứ năm, trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tỷ giá giao dịch giữa USD và VNĐ trên thị trường được thoả mãn trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trong phạm vi quy định của NHNN.Thông thường NHNN quy định giới hạn một biên độ giao dịch, tối đa không vượt quá một tỷ lệ % nhất định.

2.2.4.2. Hạn chế

- Một là, vị thế hoạt động của NHNN còn bị phụ thuộc quá lớn vào Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ. Luật hiện hành ghi: “NHNN Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là NHTƯ của nước CHXHCN Việt Nam”; “Thống đốc NHNN là thành viên Chính phủ” (Điều 1 và 11); Nghị định 96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008 ghi: “NHNN Việt Nam là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và chức năng NHTƯ của nước CHXHCN Việt Nam…”.Vị thế này của NHNN Việt Nam không giống bất cứ NHTƯ nào trên thế giới, mặc dù bất cứ NHTƯ nào trên thế giới cũng có đồng thời và thống nhất hai chức năng: NHTƯ và quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân hàng. Thực tế, do tính chất đặc thù mà ngay từ khi ra đời, dù là thuộc sở hữu nhà nước hay sở hữu cổ phần của nhiều bên, thì hầu hết các NHTƯ vẫn phải và vẫn được hoạt động mang tính Nhà nước thể hiện thông qua quyền Công pháp ghi trong tất cả các Luật NHTƯ của hầu hết các quốc gia có NHTƯ. Trong khi NHNN Việt Nam đã đặt vị thế là cơ quan, hoặc cơ quan ngang Bộ của Chính phủ lên trên và “tách” chức năng hoạt động quản lý nhà nước về tiền tệ, ngân hàng với chức năng NHTƯ. Đó là


điều không cần thiết, dễ tạo ra tư duy và cơ chế hành chính hoá các mặt hoạt động vốn dĩ thống nhất của NHTƯ một quốc gia. Các nghiệp vụ chủ yếu của NHNN làm chức năng NHTƯ còn đơn điệu, thiếu tính khoa học, đã và đang không đáp ứng kịp với tốc độ phát triển trong thời kỳ hội nhập của nền kinh tế thị trường Việt Nam và hiện đang được xếp một cách độc lập ở dưới các chức năng được gọi là quản lý nhà nước của NHNN (Điều 5, Điều 15, Điều 32 và rất nhiều điều quan trọng khác trong Luật NHNN Việt Nam hiện hành). Biểu hiện rõ nhất là có quá nhiều nghiệp vụ và quyền lực quan trọng của NHNN lại được qui định dưới dạng: “do Chính phủ, do Thủ tướng quyết định, và/hoặc theo qui định của pháp luật…”, làm cho luật trở thành “luật ống” và/hoặc tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau cũng như cần quá nhiều văn bản dưới luật để hướng dẫn.

- Hai là, thông tin về thị trường và phương tiện và kỹ thuật giao dịch. Thông tin về thị trường chưa được tập trung theo dõi đầy đủ chưa có cơ quan chuyên trách thu thập và cung cấp thông tin. Thời kỳ đầu thị trường được tập trung qua NHNN, được theo dõi nhưng không đầy đủ. Sau đó hầu như NHNN không thể theo dõi được, dẫn đến toàn bộ thông tin về thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam đã được thả nổi, các thành viên tham gia không thể chủ động tìm kiếm thị trường, chỉ khi cần thiết thì tự liên hệ theo cách thủ công, dựa vào truyền thống quen biết. Phương tiện và kỹ thuật giao dịch còn rất đơn giản, bằng điện thoại, fax, thư, riêng hệ thống điện tử kết nối trên mạng thì chưa được sử dụng rộng rãi, đang trong thời gian thí điểm. Các ngân hàng có nhu cầu vốn thường liên hệ bằng điện thoại tới các ngân hàng khác để xin vay hoặc đề nghị gửi tiền vào ngân hàng mình, khi nghiệp vụ được thực hiện hai bên gửi hợp đồng đã ký bằng thư hoặc trực tiếp do nhân viên mang tới. Với kỹ thuật giao dịch thủ công nên không tránh khỏi phiền hà phức tạp làm chậm trễ của quá trình luân chuyển vốn. Tình trạng thiếu thông tin về quy mô và cách thức hoạt động của TTTT đã gây ảnh hưởng nhất định đến định hướng hoạt động của thành viên TTTT và việc đưa ra các giải pháp CSTT phù hợp và kịp thời của NHNN.

- Ba là, các giao dịch giữa các thành viên trên cơ sở tín chấp, nên chủ yếu là không có đảm bảo, nếu không phải có sự bảo lãnh của NHNN, hoặc bảo đảm bằng số dư tiền gửi đối ứng tại ngân hàng cho vay. Do thị trường chưa có nhiều hàng hoá giao dịch, các chứng từ có giá ngắn hạn rất ít, chỉ có tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN với một lượng không lớn. Tài sản đảm bảo cho quan hệ vay, gửi gặp khó


khăn nên quan hệ vay, gửi chủ yếu phát sinh giữa các ngân hàng quen biết và tin tưởng nhau về khả năng trả nợ. Vì thế, số lượng thành viên tham gia thị trường không thể rộng rãi.

- Bốn là, lãi suất chào cho vay, gửi tiền liên ngân hàng (VNIBOR) do Thomsons Reuters công bố chưa phản ánh lãi suất thị trường: Ngoài việc tham khảo LSLNHBQ do NHNN công bố, các thành viên thị trường còn tham chiếu lãi suất VNIBOR do Thomsons Reuters cung cấp. Lãi suất này được công bố trên trang Boolberg. Hiện có 26 ngân hàng cung cấp lãi suất chào trên trang Reuters gồm 12 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 14 ngân hàng trong nước. Các ngân hàng này nhập lãi suất hàng ngày vào 11 giờ sáng qua cổng Reuterrs. Quy trình xác định lãi suất VNIBOR được thực hiện theo cách truyền thống. Trên cơ sở lãi suất do các ngân hàng thông báo, Reuters sẽ bỏ đi 25% lãi suất cao nhất và 25% lãi suất thấp nhất, và tính trung bình phân tứ vị của phần còn lại. Reuters công bố hai lãi suất VNIBOR: VNIBOR 1 (đối với các ngân hàng nước ngoài) và VNIBOR 2 (cho tất cả các ngân hàng) do sự chia tách trên thị trường các khối ngân hàng, điều này phản ánh sự phân khúc giữa ngân hàng nước ngoài và ngân hàng trong nước.

Lãi suất trên thị trường thường được công bố một chiều, chưa mô tả một cách trung thực về cấu trúc kỳ hạn của lãi suất, phương pháp xác định và thông báo chưa khoa học, nên chưa được các TCTD chọn làm căn cứ để xác định lãi suất kinh doanh của mình, vì phần lớn các giao dịch mang tính một chiều. Có hai loại lãi suất đang áp dụng: một loại do Thống đốc NHNN quy định thì chưa thực sự phản ánh cung cầu vốn khả dụng ngắn hạn giữa các ngân hàng mà phụ thuộc chủ yếu vào chính sách tiền tệ và điều tiết của NHNN Việt Nam. Còn lại lãi suất cho vay giữa các ngân hàng thì theo lãi suất thoả thuận nhưng do ngân hàng cho vay công bố. Lãi suất thỏa thuận được xác định dựa vào lãi suất huy động vốn tiền gửi, chi phí thực hiện dự trữ bắt buộc và một phần chi phí cho huy động vốn, nên mang tính cá biệt, do ngân hàng cho vay quyết định. Vì vậy, thường cao hơn lãi suất huy động vốn bình quân và bị chi phối bởi uy tín và tài sản đảm bảo cho khoản tiền vay. Nên trong cùng thời gian đã xảy ra, các khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay cao nhất và lãi suất cho vay thấp nhất. Vì vậy không tạo điều kiện khuyến khích các NHTM năng động linh hoạt trong thị trường liên ngân hàng. Thông báo lãi suất Vnibor của hãng Reuter xác định chưa khoa học nên chưa phản ảnh chính xác lãi

Xem tất cả 249 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí