Đầu Tư Của Các Ngân Hàng Nước Ngoài Ở Các Nhtm Việt Nam


Việt Nam mở cửa hoàn toàn lĩnh vực ngân hàng, nhiều ngân hàng nước ngoài đã tham gia vào thị trường tài chính Việt Nam thông qua việc góp vốn vào các ngân hàng nội địa để tiến sâu hơn và vững chắc hơn vào thị trường Việt Nam.

Bảng 2.17- Đầu tư của các ngân hàng nước ngoài ở các NHTM Việt Nam


TT

NHTMCP

Việt Nam

Ngân hàng

Nước ngoài

Ngày công bố

Tỷ lệ

sở hữu

Tổng tài sản

(Ngàn tỷ)

1

Techcombank

HSBC

07/08/2008

20%

51,8

2

SeABank

Societe Generale S.A

18/08/2008

15%

19,6



(Pháp)




3

VP Bank

OCBC (Singapore)

04/08/2008

15%

20,4

4

ACB

Standard Chartered Bank

24/7/2008

15%

103,0

5

AnBình Bank

Maybank (Malaysia)

28/05/2008

15%

15,6

6

Eximbank

Sumitomo Mitsui

31/07/2007

15%

44,4



(Nhật Bản)




7

Habubank

Deutsche Bank

01/02/2007

10%

16,5

8

Phương Nam

UOB (Singapore)

25/01/2007

10%

17,6

9

Phương Đông

BNP Paris (Pháp)

17/11/2006

10%

10,7

10

Sacombank

ANZ Bank

24/3/2005

10%

75,0

11

VCB

Mizuho

30/9/2011

15%

358

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.

Phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới - 17

Nguồn:Tạp chí NH tháng 9 năm 2011

2.2. Đánh giá chung về thực trạng phát triển thị trường tiền tệ ở Việt Nam theo tiêu chí cấu trúc thị trường giai đoạn sau khi gia nhập WTO

Qua nghiên cứu hiện trạng cho thấy TTTT Việt Nam còn phát triển ở trình độ thấp so với khu vực và thế giới. TTTT bị phân khúc, manh mún, chia nhóm (NHTMNN, NHLD, chi nhánh NH nước ngoài, NHTMCP,…). Mặc dù cơ chế chính sách, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin,… hiện tại đã tạo nền tảng cơ bản cho hoạt động TTTT. Tuy nhiên, TTTT Việt Nam vẫn chưa phát triển, các giao dịch trên TTTT, nhất là giao dịch Repo vẫn chưa thực sự sôi động; việc theo dõi, xử lý thông tin TTTT còn nhiều bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến thực hiện chức năng giám sát TTTT và điều hành CSTT của NHNN. Bên cạnh đó, hoạt động của TTTT Việt Nam chưa mang tính chuyên nghiệp cao. Các TCTD tham gia thị trường chủ yếu nhằm mục đích bảo đảm tính thanh khoản, chưa quan tâm nhiều đến nhu cầu kinh doanh sinh lời trên thị trường vì thế chưa đảm bảo vai trò là người tạo lập thị trường, cụ thể:


2.2.1. Về hàng hóa (công cụ) tham gia vào thị trường.

2.2.1.1. Thành tựu.

Việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc theo phương thức đấu thầu qua NHNN trong mấy năm qua đã mở ra một kênh phát hành mới, huy động được hàng ngàn tỷ đồng với lãi suất và chi phí huy động thấp, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu chi tiêu của Ngân sách Nhà nước và cho các dự án phát triển ở Trung ương và địa phương.

Mặt khác, việc phát hành tín phiếu kho bạc theo phương thức đấu thầu qua NHNN đã trở thành nguồn cung cấp hàng hoá chủ yếu cho hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở – một công cụ quan trọng để NHNN thực thi chính sách tiền tệ trong điều kiện kinh tế thị trường.

Hơn nữa, bằng việc đầu tư vào tín phiếu kho bạc phát hành qua NHNN, các thành viên nắm giữ các tín phiếu kho bạc có thể tham gia nghiệp vụ thị trường mở, cầm cố (nghiệp vụ cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá ngắn hạn) hoặc chiết khấu tại NHNN. Các NHTM tham gia đấu thầu tín phiếu kho bạc không những có thêm công cụ để thực hiện các nghiệp vụ tín dụng với NHNN mà còn có thêm kênh đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời một cách an toàn, có tính thanh khoản cao và là công cụ đảm bảo có độ tin cậy vững chắc.

Thêm vào đó, Bộ tài chính đã từng bước cải tiến linh hoạt hơn về loại kỳ hạn tín phiếu và lãi suất chỉ đạo, tạo điều kiện cho thị trường đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc hoạt động tích cực và ngày càng phát triển.

2.2.1.2. Hạn chế

- Thứ nhất: Công cụ tài chính chưa đa dạng về chủng loại và thời hạn

Nhìn chung, các “hàng hóa” trên TTTT của Việt Nam tương đối đa dạng, tuy nhiên, khối lượng phát hành từng loại công cụ không lớn và chưa được chuẩn hóa. Trong số các loại GTCG nêu trên, tín phiếu Kho bạc vẫn là công cụ tài chính chủ yếu trên TTTT. Hàng hoá trên thị trường vẫn hạn hẹp về cả chủng loại, thời hạn và số lượng. Theo Luật NHNN quy định chỉ có các loại giấy tờ có giá ngắn hạn mới được giao dịch trên thị trường mở như tín phiếu NHNN, tín phiếu kho bạc và giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Trong khi đó, theo kinh nghiệm của một số nước, bên cạnh các giấy tờ có giá ngắn hạn, các giấy tờ có giá dài hạn cũng được sử dụng trong các giao dịch mua bán có kỳ hạn, nghĩa là theo các kỳ hạn ngắn, với mục đích điều tiết


kịp thời vốn khả dụng của các TCTD. Các giấy tờ có giá dài hạn chủ yếu là trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu công trình.

+ Trái phiếu Chính phủ chưa đa dạng về thời hạn:

Tín phiếu Kho bạc được phát hành với thời hạn 364 ngày là chủ yếu. Điều này thể hiện tính không chuyên nghiệp của TTTT vì khối lượng và thời hạn của GTCG phụ thuộc chủ yếu vào nhu cầu vốn của ngân sách nhà nước mà không tính đến những tiện ích của nó mang lại cho thị trường. Tín phiếu kho bạc là một ví dụ điển hình. Bộ tài chính chỉ căn cứ vào nhu cầu vốn cho bù đắp bội chi ngân sách để phát hành tín phiếu kho bạc với thời hạn chủ yếu là 364 ngày vì thế không có cơ sở để xây dựng đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường (ở Singapore mặc dù ngân sách bội thu nhưng Chính phủ luôn phát hành một khối lượng lớn tín phiếu kho bạc với thời hạn đa dạng để phục vụ cho hoạt động của TTTT).

+ Chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu thương mại chưa trở thành công cụ giao dịch trên TTTT vì hiện chưa có tổ chức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp có uy tín11 tại Việt Nam; Mặt khác, việc sử dụng dịch vụ xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp chưa phổ biến nên các TCTD khó xác định được chất lượng và mức độ rủi ro của các hối phiếu do doanh nghiệp phát hành; hầu hết thành viên thị trường chưa nhận thức đầy

đủ về hối phiếu, TCTD chỉ quan hệ với bên bán, trong khi rủi ro lại xuất hiện ở phía bên mua….

- Thứ hai: việc mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn còn chưa phát triển. Các giấy tờ có giá ngắn hạn, là công cụ của thị trường tiền tệ mới chỉ có tín phiếu kho bạc được phát hành trên thị trường sơ cấp qua NHNN, tín phiếu NHNN phát hành với số lượng rất hạn chế. Thương phiếu thì còn đang giai đoạn chuẩn bị trên văn bản quy chế chưa chính thức xuất hiện. Chứng chỉ tiền gửi, chưa có nhiều. Thị trường chưa sôi động số lượng thành viên tham gia đấu thầu tín phiếu kho bạc còn ít mỗi phiên chỉ có từ 1 đến 4 thành viên, chủ yếu là các NHTM nhà nước trúng thầu. Kỳ hạn chưa đa dạng chủ yếu là 364 ngày.




11 Hiện nay, các tổ chức thực hiện xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp tại Việt Nam gồm Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) thuộc NHNN, công ty xếp hạng tín nhiệm của Vietnamnet và công ty xếp hạng tín nhiệm C&A. Tuy nhiên, quy mô hoạt động của các tổ chức này còn hạn chế, các dịch vụ do các tổ chức này cung cấp chưa được sử dụng phổ biến trên thị trường.


-Thứ ba,GTCG phát hành không theo chuẩn mực quốc tế: GTCG giao dịch trên thị trường chưa được chuẩn hóa, Khi xác định giá mua, bán GTCG, các bên liên quan mất nhiều thời gian thống nhất cách thức tính toán và phải tự tính bằng excel. Chương trình phần mềm giao dịch trái phiếu của Bloomberg không hỗ trợ được việc tính toán này vì đa số các loại trái phiếu trên thị trường Việt Nam phát hành không theo chuẩn mực quốc tế.

-Thứ tư, Khó khăn trong lưu trữ, chuyển giao GTCG dưới hình thức chứng chỉ: Hiện nay, một giá trị lớn GTCG dưới hình thức chứng chỉ ghi danh vẫn chưa được làm thủ tục lưu ký tại Trung tâm lưu ký chứng khoán gây khó khăn cho việc lưu trữ, chuyển giao giữa các bên tham gia giao dịch.

-Thứ năm: Sản phẩm trên TTTT còn nghèo nàn, các TCTD chủ yếu vẫn là các giao dịch cho vay, gửi tiền. Các công cụ trên thị trường thứ cấp chưa xuất hiện như: thương phiếu, các công cụ phái sinh khác, thời hạn vay gồm cả ngắn hạn và trung dài hạn, dẫn đến các giao dịch ngắn hạn chưa được coi trọng, đó là nguyên nhân dẫn đến thị trường thứ cấp chưa phát triển. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường không dồi dào nguồn tiền đồng Việt Nam để tham gia mua tín phiếu trên thị trường sơ cấp, từ đó không có hàng hoá để tham gia thị trường mở.

Trong khi đó, nếu để đáp ứng được các quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân kinh doanh tiền tệ, thì phải thừa nhận là số phiên giao dịch thị trường mở còn ít, chưa cung ứng kịp thời về vốn cho các TCTD và vẫn chưa tạo ra được sự liên hoàn trong nghiệp vụ thị trường mở. Vì vậy, việc tăng số phiên giao dịch phù hợp với nhu cầu vốn cần thiết của các TCTD trong từng thời kỳ là một vấn đề cần quan tâm.

- Thứ sáu: Trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng khối lượng giao dịch ngoại tệ qua thị trường còn nhỏ do thị trường kém linh hoạt, các NHTM hoạt động trong tình trạng tự cung tự cấp, dẫn đến tình trang khách hàng có ngoại tệ thì khống muốn bán cho ngân hàng, ngân hàng luôn tìm cách dự trữ ngoại tệ để sẵn sàng phục vụ cho khách hàng của mình và tránh rủi ro hối đoái vì tỷ giá luôn có xu hướng tăng.

2.2.2. Về các chủ thể tham gia cung cầu trên thị trường

2.2.2.1. Thành tựu

- Thứ nhất: Trên TTTT Việt Nam, Chính phủ tham gia với tư cách là người phát hành các tín phiếu, trái phiếu Chính phủ. Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ


lực trong việc lành mạnh hoá khu vực ngân hàng thông qua việc triển khai Đề án củng cố, chấn chỉnh các NHTMCP (năm 1998) và Đề án cơ cấu lại các NHTMNN (năm 2001) nhằm lành mạnh hoá tài chính, tăng cường kỷ luật thị trường trong hoạt động ngân hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng. Chương trình cải cách ngân hàng cũng nhận được sự hỗ trợ quan trọng về tài chính và kỹ thuật của cộng đồng quốc tế, đặc biệt WB, ADB, IMF và chính phủ các nước.

-Thứ hai: Ngân hàng Nhà nước đổi mới về cơ cấu tổ chức và phương thức điều hành. NHNN tham gia TTTT với tư cách là người phát hành tín phiếu NHNN, tổ chức NVTTM, thực hiện tái cấp vốn đối với các TCTD. Bên cạnh đó, NHNN còn có một chức năng quan trọng là theo dõi, giám sát hoạt động của TTTT để phục vụ điều hành CSTT quốc gia. NHNN ban hành văn bản quy phạm phát luật liên quan tới hoạy động của TTTT liên ngân hàng và sử dụng các công cụ CSTT để can thiệp nhằm điều tiết TTTT theo mục tiêu của CSTT.

Thị trường tiền tệ Việt Nam đã từng bước được khẳng định thông qua tính ổn định giá trị, tính đa dạng về phương tiện thanh toán thay tiền mặt và không ngừng hoàn thiện các công nghệ điều hành cũng như công nghệ kinh doanh hiện đại hướng về các nhu cầu tiện ích đa dạng của mọi tầng lớp nhân dân.

- Thứ ba: Các TCTD đang trong quá trình chấn chỉnh, củng cố và cơ cấu lại. Là thành viên chính trên TTTT, TCTD tham gia các thị trường trái phiếu Chính phủ do NHNN, Kho bạc Nhà nước và SGDCKHN tổ chức, tham gia thị trường cho vay gửi tiền liên ngân hàng, thị trường mua bán ngoại tệ liên ngân hàng, NVTTM, thị trường đấu thầu tìn phiếu, thực hiện các nghiệp vụ hoán đổi tiền tệ và các nghiệp vụ khác. Với mạng lưới hoạt động rộng khắp, công nghệ hiện đại và lĩnh vực hoạt động được chuyên môn hóa, các TCTD dần trở thành nhà tạo lập TTTT ở Việt Nam. Các TCTD cũng đi đầu trong việc đưa các sản phẩm, dịch vụ tiên tiến vào Việt Nam như các dịch vụ phát sinh, các loại thẻ thông minh…

+ Cho vay chính sách được tách khỏi cho vay thương mại và chấm dứt tình trạng cơ quan quản lý nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các TCTD để bảo đảm các TCTD, kể cả các NHTMNN, thực hiện kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, tối đa hoá lợi nhuận. Quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về tài chính và các rủi ro ngày càng được thể chế hóa rõ ràng và thực hiện tương đối hiệu quả, nhất là khu vực ngân hàng cổ phần và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các NHTMNN đã được kiểm toán quốc tế định kỳ và các NHTM khác đã


được kiểm toán độc lập hàng năm, đồng thời phải thực hiện công bố thông tin về tình hình tài chính và hoạt động ra công chúng.

+ Các NHTM đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ và nâng cao năng lực quản trị, điều hành trên cơ sở tăng cường áp dụng các thông lệ quốc tế về quản trị doanh nghiệp và từng bước thiết lập các định chế quản trị rủi ro. Các nghiệp vụ ngân hàng cơ bản không ngừng được chuẩn hoá và tích hợp thống nhất dựa trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại để hỗ trợ cho quá trình quản lý, điều hành tập trung của các NHTM. Hiện nay, ngành Ngân hàng đang bước vào hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán giai đoạn II. Do đó, các NHTM Việt Nam ngày càng hoạt động mang tính chuyên nghiệp và có uy tín hơn với quốc tế.

+ Tổ chức bộ máy của các NHTM được hiện đại hoá. Qui mô hoạt động và mạng lưới kênh phân phối tiếp tục được mở rộng hợp lý hơn. Hiệu quả kinh doanh của các TCTD đã được cải thiện rõ rệt, hầu hết các TCTD kinh doanh có lãi.

- Thứ : Các TCTC phi ngân hàng, Các công ty bảo hiểm, Quỹ đầu tư: Đặc thù hoạt động của các Công ty bảo hiểm là có nguồn vốn dài hạn nhàn rỗi, do đó, các định chế này thường sử dụng nguồn này đầu tư vào thị trường trái phiếu Chính phủ (bao gồm cả thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc do NHNN tổ chức). Các Công ty chứng khoán: Hiện có khoảng 100 Công ty chứng khoán hoạt động. Các Công ty này là những định chế tài chính quan trọng tham gia hoạt động repo GTCG trên TTTT. Trong thời gian qua, các Công ty chứng khoán chủ yếu thực hiện môi giới cổ phiếu và trái phiếu. Các tổ chức tài chính vi mô, các doanh nghiệp khác: Nhóm đối tượng này chưa có vai rò rõ nét trên TTTT Việt Nam.

-Thứ năm: Doanh nghiệp, cá nhân tham gia TTTT với tư cách nhà đầu tư vào công cụ nợ. Doanh nghiệp, cá nhân là một đối tượng chủ thể tham gia vào thị trường tiền tệ. Doanh nghiệp, cá nhân vừa là người gửi tiền, vừa là người vay tiền, nhưng chủ yếu là đi vay. Trong những năm qua, cùng với những cải cách về hệ thống luật pháp và môi trường kinh doanh, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư ở Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể, số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, quy mô hoạt động được mở rộng, hiệu quả SXKD có tiến bộ…đó là điều kiện thuận lợi để tín dụng ngân hàng phát triển.

2.2.2.2. Hạn chế

- Một là, ở Việt Nam hiện nay chưa có thị trường tiền tệ phát triển một cách thực sự. Thực tế, muốn có một nền kinh tế thị trường thực sự thì phải có môi trường kinh tế để các tổ chức kinh tế, các cá nhân phát huy hết vai trò của mình, nhưng


phải chịu sự chi phối của các quy luật thị trường. Nhìn từ góc độ đó thì bối cảnh của Việt Nam trong thời gian qua còn nhiều bất cập:

+ Quy mô doanh nghiệp nhỏ và công nghệ lạc hậu.

+ Cơ cấu doanh nghiệp chưa hợp lý. DNNN chậm được củng cố, sắp xếp lại, tốc độ cổ phần hóa, chuyển đổi hình thức sở hữu còn quá chậm và đang gặp phải không ít rào cản.

+ Tình hình tài chính của nhiều doanh nghiệp rất yếu kém; tỷ suất lợi nhuận thấp, một số kinh doanh thua lỗ; nợ nần dây dưa lẫn nhau; hệ số tự chủ tài chính quá thấp... Bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tuy có tiến bộ, nhưng chỉ mới khẳng định được ở một số ít mặt hàng, còn nhiều hàng hóa và dịch vụ khác, nhất là hàng cao cấp, hàng xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao, còn rất hạn chế. Ngay cả khi Việt Nam còn đang thực hiện chính sách bảo hộ khá mạnh, nhưng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước cũng còn rất thấp, nguy cơ "thua ngay trên sân nhà" là một thực tế đáng báo động.

- Hai là, NHNN là NHTW thực hiện ba chức năng: phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân hàng, và là ngân hàng của chính phủ. Song trong thực tế chỉ thực hiện được hai chức năng phát hành tiền và ngân hàng của các ngân hàng, riêng chức năng là ngân hàng của chính phủ thì chưa thực hiện được một cách đầy đủ. Việc quản lý vốn tín dụng của chính phủ ở Việt Nam ngoài ngân hàng còn có Bộ tài chính nên xảy ra hiện tượng trên một địa bàn NHTM cho vay, đồng thời kho bạc, quỹ hỗ trợ phát triển cũng cho vay nhưng với lãi suất cho vay rẻ hơn, nên đã diễn ra sự cạnh tranh không bình đẳng, điều đó không chỉ gây khó khăn cho ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của quốc gia.

- Ba là, thời gian qua, chưa thành lập được công ty môi giới tiền tệ, để chuyên trách thực hiện khai thác nghiệp vụ trung gian môi giới, kinh doanh trên thị trường liên ngân hàng. Việc tổ chức thực hiện và theo dõi về giao dịch trên thị trường mang đặc điểm phân tán, qua nhiều đầu mối: vụ tín dụng, vụ chính sách tiền tệ, sở giao dịch, chi nhánh NHNN tỉnh thành phố nên đã hạn chế đến hoạt động của thị trường.

Trong thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt Nam chưa có người môi giới hoạt động. Do chưa có môi giới tiền tệ, nên giao dịch trong thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chủ yếu là giao dịch trực tiếp giữa các thành viên, vì vậy không thể giải


quyết được nhu cầu ngoại tệ trong thị trường, các NHTM chưa thông qua thị trường kinh doanh ngoại tệ để sinh lời mà chỉ giải quyết nhu cầu ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu của khách hàng và chấp hành trạng thái ngoại tệ theo quy định của NHNN.

- Bốn là, thị trường mở chưa sôi động. Số thành viên tham gia thấp, chủ yếu là các NHTM.QD. Các TCTD chưa quan tâm đúng mức đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trực tiếp, chuyên sâu nghiệp vụ thị trường mở. Đầu tư trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ nghiệp vụ thị trường mở còn hạn chế. Các TCTD thường vẫn tập trung vào nghiệp vụ kinh doanh truyền thống như cho vay mà chưa có thói quen kinh doanh trên thị trường tiền tệ, điển hình là thông qua nghiệp vụ thị trường mở.

Số tín phiếu kho bạc hiện có thể giao dịch thị trường mở tập trung ở một số NHTMQD, do khối lượng trúng thầu của các NHTMQD trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc chiếm trên 70% tổng khối lượng trúng thầu. Từ đó cho thấy các TCTD có quy mô nhỏ không đủ điều kiện cạnh tranh với các TCTD có quy mô lớn, nhất là trong điều kiện việc đấu thầu tín phiếu kho bạc thực hiện trên cơ sở lãi suất chỉ đạo. Việc sử dụng tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp chưa linh hoạt, các TCTD thường sử dụng các tín phiếu này như là một công cụ đầu tư hơn là một công cụ của thị trường tiền tệ để điều tiết vốn khả dụng. Thực tế, các TCTD trúng thầu thường giữ tín phiếu cho đến hạn thanh toán, chỉ có một phần nhỏ được các ngân hàng dùng làm tài sản thế chấp vay vốn lẫn nhau hoặc vay NHNN, mua bán trên thị trường thứ cấp và từ tháng 7/2000 một bộ phận nhỏ tín phiếu kho bạc đã được sử dụng trên thị trường mở.

2.2.3. Về hệ thống thị trường.

2.2.3.1. Thành tựu

- Thứ nhất, các thị trường bộ phận của TTTT đã hình thành. Thị trường ra đời và phát triển, từ không có thị trường đến có thị trường, đã đánh dấu một bước đổi mới của thị trường tiền tệ Việt Nam. Trong thời gian mới thành lập, tuy hoạt động của thị trường còn đơn giản, nhưng cũng đã đánh dấu một bước đổi mới của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế thị trường. Mặc dù mới phát triển chưa lâu nhưng về cơ bản, TTTT Việt Nam đã hình thành tương đối đồng bộ. Hệ thống công cụ tài chính của thị trường đã được hình thành tương đối đầy đủ như tín phiếu, trái phiếu kho bạc; tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính quyền địa phương. Những văn bản pháp lý về

Xem tất cả 249 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí