Bảng 2.7 -Kết quả đấu thầu tín phiếu kho bạc năm 2011 Và 09 tháng đầu năm 2012
Đơn vị:Tỷ đồng
Số thành viên dự thầu | Số thành viên trúng thầu | Khối lượng dự kiến | Khối lượng trúng thầu | Tỷ lệ trúng thầu/dự kiến | |
Tháng 1 | 8 | 3 | 1.000 | 1.000 | 100% |
Tháng 2 | 22 | 4 | 4.000 | 1.100 | 27,5% |
Tháng 3 | 11 | - | 4.000 | - | - |
Tháng 4 | 6 | - | 3.000 | 100 | 33,3% |
Tháng 5 | 11 | 1 | 4.000 | 50 | 1,25% |
Tháng 6 | 4 | - | 3.000 | - | - |
Tháng 7 | 1 | 3.000 | |||
Tháng 8 | 1 | 1 | 1.000 | 300 | |
Tháng 9 | 3 | 1 | 2.000 | 100 | |
Tháng 10 | 1 | 1.000 | |||
Tháng 11 | 0 | ||||
Tháng 12 | 0 | ||||
Cộng | 68 | 10 | 26.000 | 2.650 | |
Tháng 1/2012 | |||||
Tháng 2/2012 | 6 | 1 | 3.000 | 830 | |
Tháng 3/2012 | 8 | 6 | 3.000 | 1.010 | |
Tháng 4/2012 | 8 | 6 | 3.000 | 1.294 | |
Tháng 5/2012 | 23 | 16 | 5.000 | 4.157 | 83% |
Tháng 6/2012 | 7 | 5 | 1.500 | 922 | 61,5% |
Tháng 7/2012 | 11 | 9 | 3.000 | 1.934 | 64,5% |
Tháng 8/2012 | 16 | 15 | 4.500 | 3.457 | 76,8% |
Tháng 9/2012 | 7 | 6 | 4.000 | 1.719 | 43% |
Có thể bạn quan tâm!
- Hiện Trạng Thị Trường Tiền Tệ Liên Ngân Hàng Việt Nam
- Diễn Biến Huy Động Vốn, Đầu Tư Gửi Tiền, Cho Vay Trên Tt Liên Ngân Hàng Đến Tháng 9 Năm 2012
- Diễn Biến Giá Usd Qua Các Tháng Trong Năm 2012
- Quy Mô Và Thị Phần Vốn Huy Động Của Nhtm Nhà Nước
- Đầu Tư Của Các Ngân Hàng Nước Ngoài Ở Các Nhtm Việt Nam
- Về Cơ Chế Hoạt Động Của Thị Trường.
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
Nguồn: Báo cáo thống kê kết quả đấu thầu TPCP, NHNN
+ Trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 1 năm trở lên do Chính phủ phát hành nhằm huy động vốn cho ngân sách để đầu tư vào một số lĩnh vực nhất định. Trái phiếu có kỳ hạn từ một năm trở lên được phát hành thông qua Kho bạc Nhà nước, qua kênh bảo lãnh phát hành hoặc đấu giá tại SGDCKHN. Từ năm 2007 tới nay không phát hành trái phiếu Chính phủ dưới hình thức bán lẻ. Trái phiếu Chính phủ là loại "hàng hóa" được mua, bán có kỳ hạn chủ yếu trên TTTT.
- Trái phiếu Chính phủ do Ngân hàng Phát triển ban hành: Ngân hàng Phát triển phát hành trái phiếu để đầu tư vốn phát triển hạ tầng dài hạn. Riêng đầu tháng 6/2012, trái phiếu do Ngân hàng Phát triển phát hành là 5.560 tỷ đồng với lãi suất trúng thầu cho kỳ hạn 3 năm là 9,5%/năm, kỳ hạn 5 năm lãi suất là 9,68%/năm.
Việc đấu giá được xác định theo lịch trình các ngày đấu giá hàng tuần, tuy nhiên, việc phát hành trên thực tế không diễn ra thường xuyên. Bộ tài chính quy định mức trần lãi suất tối đa, do đó chưa khuyến khích được các thành viên tham gia dự thầu, đặc biệt trong thời điểm khan hiếm vốn khả dụng. Trong quí 1/2009, không có đợt phát hành trái phiếu Chính phủ nào thành công. Mặc dù trái phiếu Chính phủ được chào bán hàng tuần, song tất cả các đơn dự thầu đều có mức lãi suất dự thầu cao hơn so với mức BTC dự kiến. Thực tế này trái ngược với tình hình từ tháng 8 – 12/2008, khi hầu hết các đợt đấu giá đều thành công. Tuy nhiên, số lượng thành viên tham gia khá hạn chế, chỉ có 3-4 thành viên tham gia mỗi phiên đấu thầu. Trong giai đoạn này, việc phát hành diễn ra tương đối thường xuyên, song số lượng thành viên tham gia vẫn rất thấp.
- Tín phiếu NHNN cũng là công cụ nợ ngắn hạn do NHNN phát hành nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. NHNN phát hành tín phiếu NHNN qua các phiên đấu thầu NVTTM trong trường hợp CSTT thắt chặt khi khối lượng trái phiếu Chính phủ do các TCTD nắm giữ hạn chế, do đó, tín phiếu NHNN không được phát hành thường xuyên và khối lượng phát hành không lớn. Việc phát hành tín phiếu NHNN không theo định kỳ và khối lượng phát hành phụ thuộc vào mục tiêu điều hành CSTT của NHNN trong từng thời kỳ. Thời hạn của tín phiếu NHNN ngắn, khoảng 3 tháng. Tín phiếu NHNN chủ yếu được sử dụng trong giao dịch giữa NHNN với TCTD qua NVTTM, chiết khấu hoặc cầm cố, không được sử dụng phổ biến trong quan hệ giữa các thành viên khác trên TTTT.
- GTCG ngắn hạn do các TCTD phát hành là chủ yếu là kỳ phiếu, chiếm khoảng 95% tổng nguồn vốn huy động từ các GTCG. Các GTCG ngắn hạn do các TCTD phát hành phần lớn không đáp ứng được nhu cầu lưu thông trên TTTT vì đa số là các chứng chỉ ghi danh, không được chiết khấu trước hạn, mua nơi nào phải thanh toán tại nơi đó.
- Trái phiếu chính quyền địa phương phát hành: Đến nay, cả nước chỉ có 3 địa phương phát hành trái phiếu chính quyền địa phương là Hà Nội, thành phố Hồ Chính Minh và Đà Nẵng. Các TCTD sở hữu các loại trái phiếu này được mua, bán, chiết khấu trên TTTT (thông qua NVTTM, chiết khấu, cầm cố tại NHNN). Tính đến 2009, số dư trái phiếu chính quyền địa phương còn khoảng dưới 10.000 tỷ đồng.
- Trái phiếu doanh nghiệp: Một số doanh nghiệp lớn như Vinashin, EVN,… phát hành trái phiếu trên thị trường và các loại trái phiếu này dược các tổ chức tài
chính mua, bán có kỳ hạn trên thị trường tiền tệ. Số dư trái phiếu doanh nghiệp đến 2009 khoảng 20.000 tỷ đồng.
- Công trái hay Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng cũng là những hàng hóa được giao dịch trên thị trường này, tuy mức độ giao dịch khác nhau tùy từng loại. Các loại giấy tờ có giá ngắn hạn khác như thương phiếu, kỳ phiếu ghi danh, giấy vay nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp... gần như chưa được mua bán lại trên thị trường.
Bảng 2.8- Kết quả hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm | Số phiên | Tổng số | Mua hẳn | Mua có KH | Bán hẳn | Bán có KH | Lãi suất trúng thầu (%) |
2000 | 17 | 1.904 | 480 | 874 | 550 | 4,5 - 4,9 | |
2001 | 48 | 3.934 | 60 | 3.254 | 570 | 50 | 3,3-5,15 |
2002 | 85 | 9.146 | 7.246 | 1.900 | 4,5-5,1 | ||
2003 | 107 | 21.184 | 9.844 | 11.340 | 1,58-5 | ||
2004 | 123 | 61.936 | 60.986 | - | 950 | 3,25-5,45 | |
2005 | 158 | 102.479 | 100.679 | 1.100 | 700 | 3,7-7,4 | |
2006 | 162 | 124.325 | 36.833 | 87.202 | 200 | 0,8-7,1 | |
2007 | 355 | 417.977 | 61.133 | 356.844 | - | 3,75-8 | |
2008 | 402 | 1.036.066 | 947.206 | 76.837 | 12.023 | ||
2009 | 329 | 966.980 | 966.880 | 100 | |||
2010 | 491 | 2.108.715 | 2.101.420 | 7.295 | |||
2011 | 431 | 2.800.872 | 2.800 | 12,73 | |||
Tổng | 2.708 | 540 | 13.923 | ||||
Th 1/2012 | 32 | 208.008 | 208.008 | ||||
Th 2/2012 | 42 | 46.37 | |||||
Th 3/2012 | 44 | 57.690 | 28.2778 | 29.412 | 13,49 (M) 11,94(B) | ||
Th 4/2012 | 38 | 60.479 | 9.057 | 51.422 | 12,52 (M) 10,42(B) | ||
Th 5/2012 | 30 | 30.380 | 0 | 6.438 | 23.942 | 0 | 11,76(M); 7,47(B) |
Th 6/2012 | 25 | 8.534 | 0 | 5.474 | 3.060 | 0 | 9,92(M); 5,63(B) |
Th 7/2012 | 22 | 2.026 | 0 | 2.026 | 0 | 0 | 8 |
Th 8/2012 | 23 | 34.428 | 0 | 34.428 | 0 | 0 | 8,12 |
Th 9/2012 | 19 | 43.878 | 0 | 43.878 | 0 | 0 | 8 |
Nguồn: Báo cáo hoạt động NVTTM của NHNN
- Nghiệp vụ thị trường mở (NVTTM) được NHNN chính thức thực hiện từ 12/7/2000, đánh dấu bước tiến quan trọng của NHNN trong việc chuyển sang điều hành chính sách tiền tệ bằng công cụ tiền tệ gián tiếp.
Khối lượng giao dịch NVTTM tăng mạnh qua các năm. Trong năm 2007, vốn khả dụng của các TCTD dư thừa nên NHNN tổ chức các phiên đầu thầu bán là chủ yếu (68 phiên mua và 287 phiên bán). Sang năm 2008, thị trường diễn biến đảo chiều. NHNN đã tăng tần suất các phiên đấu thầu NVTTM lên tới 2 phiên đấu thầu/ngày (1phiên bán và 1 phiên mua). Thời điểm giáp Tết nguyên đán, NHNN tổ chức tời 3 phiên/ ngày nhằm đáp ứng nhu cầu vốn khả dụng cho các TCTD. Tuy nhiên, do thiếu vốn nên các phiên NHNN bán hầu như không có TCTD nào tham gia. Qua NVTTM, NHNN cung ra bình quân khoảng trên 3.500 tỷ đồng/phiên, đặc biệt sau dịp tết nguyên đán, có ngày NHNN cung ra đến 15.000 tỷ đồng. Năm 2008, NHNN thực hiện 401 phiên đấu thầu, tăng 46 phiên so với năm 2007. Tổng doanh số giao dịch năm 2008 là 1.036.066 tỷ đồng, tăng 618.727 tỷ đồng (tăng 148%) so với năm 2007. Tuy còn số tăng ấn tượng, nhưng doanh số trúng thầu chỉ đạt 25% so với nhu cầu vốn của TCTD và gần như 100% lượng tiền dự kiến cung ra thị trường qua NVTTM đều trúng thấu. Lượng tiền NHNN cung ứng ra qua kênh NVTTM năm 2008 đạt 947.206 tỷ đồng, tăng gấp gần 16 lần so với năm 2007. Đối với các phiên bán GTCG doanh số trúng thầu chỉ đạt 88.860 tỷ đồng, giảm 267.984 tỷ đồng so với năm 2007 (gần 3 lần). Do thiếu vốn, các TCTD đã đặt thầu có lúc lên tới 40%/năm và lãi suất trúng thầu là 30,1%/ năm. Trước tình hình trên, NHNN đã áp dụng phương thức đầu thầu khối lượng (lãi suất do NHNN công bố trước) nên lãi suất giảm dần từ 15%/năm xuống các mức 14%, 13%, 10% và 9%/năm.
Có thể thấy, năm 2008, nghiệp vụ TTTT có nhiều diễn biến phức tạp song đã phát huy vai trò tích cực trong việc thực thi CSTT, góp phần kiểm soát lạm phát, đảm bảo khả năng thanh khoản cho các TCTD, giữ vững tính an toàn và bền vững của hệ thống Ngân hàng. Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức đấu thầu khối lượng cũng khiến cho các ngân hàng nhỏ, nắm giữ ít GTCG không cạnh tranh được về khối lượng đặt thầu với các ngân hàng lớn nên chỉ trúng thầu với khối lượng ít và phải vay lại của các ngân hàng lớn với lãi suất cao hơn.
Năm 2009, khi lạm dụng phát đã được kiềm chế, Chính phủ đặt ưu tiên cho mục tiêu chống suy giảm kinh tế, theo đó, với mục tiêu khuyến khích các TCTD mở rộng tín dụng cho nền kinh tế, 6 tháng đầu năm 2009 NHNN không tổ chức các phiên đầu thấu bán Tín phiếu NHNN để thu tiền về mà chỉ thực hiện các phiên mua có kỳ hạn 14 ngày (1 phiên/ngày) nhằm đáp ứng linh hoạt như cầu vốn khả dụng nên doanh số trúng thầu chỉ đạt 74% so với lượng tiền dự kiến
đưa ra thị trường của NHNN. Đến 30/06/2009, doanh số trúng thầu đạt 129.437 tỷ đồng, giảm 519.668 tỷ đồng (giảm khoảng 4 lần) so với cùng kỳ năm 2008, trong đó khối lượng trúng thầu đạt bình quân hơn 1.000 tỷ đồng/phiên. Doanh số thực hiện 6 tháng đầu năm 2009 chỉ chiếm trên 10% so với doanh số giao dịch cả năm 2008. Lãi suất cơ bản cùng kỳ. Diễn biến này trái ngược so với năm 2008. Từ cuối tháng 7/2009, căn cứ tín hiệu thị trường, NHNN đã tổ chức thêm các phiên đầu thầu bán tín phiếu NHNN với tần suất 1 ngày 2 phiên đấu thầu, trong đó 1 phiên mua kỳ hạn (kỳ hạn 7 ngày hoặc 14 ngày) và 1 phiên bán hẳn (kỳ hạn 91 và 182 ngày). Tuy nhiên, trong số 68 phiên đấu thầu bán TPNHNN chỉ có 2 phiên bán trúng thầu với doanh số đạt 10 tỷ đồng.
Giai đoạn cuối năm 2009, nhu cầu vốn khả dụng các TCTD có xu hướng tăng so với 6 tháng đầu năm thể hiện ở khối lượng trúng thầu bình quân mua trong tháng 7 tăng lên mức 1.300 tỷ đồng/phiên, sang tháng 8 con số này lên tới 4.200 tỷ đồng/phiên (cao cấp 4 lần bình quân của 6 tháng đầu năm); từ tháng 9 đến cuối năm, khối lượng trúng thầu mua bình quân tăng lên ở mức 7.000- 8.000 tỷ đồng/ phiên, đặc biệt trong nửa đầu tháng 12, NHNN đã cung ứng tiền qua kênh NVTTM với khối lượng bình quân xấp xỉ 15.000 tỷ đồng/ phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD bị thiếu hụt vốn khả dụng trầm trọng. Tuy nhiên, lãi suất giao dịch NVTTM luôn giữ ở mức ổn định. Cụ thể, từ đầu năm đến 30/11/2009, lãi suất mua có kỳ hạn duy trì ở mức 7%/năm, bằng lãi suất cơ bản trong kỳ do NHNN đã áp dụng phương thức đầu thầu khối lượng, lãi suất thống nhất. Từ ngày 01/12/2009, lãi suất mua có kỳ hạn tăng lên 8%/năm, theo mức tăng lãi suất cơ bản được công bố. Lãi suất bình quân các phiên bán là 7,21%/ năm, không chênh lệch nhiều so với cơ bản trong kỳ.
Về lượt thành viên tham gia nghiệp vụ TTM tăng mạnh qua các năm ( năm 2008 là 3.208; năm 2009 là 3.121; năm 2010 là 6.106; 9 tháng đầu năm là 3.906). Từ năm 2010 đến nay, ngoài các NHTM NN, hiện nay còn có thêm NHTMCP, NH liên doanh, NH nước ngoài. Giấy tờ có giá của các thành viên tham gia ngày càng đa dạng hơn như Trái phiếu chính phủ, Trái phiếu Chính quyền địa phương, tín phiếu NHNN, Trái phiếu của các NH Chính sách, NH Phát triển.
Trong giai đoạn từ năm 2007 đến nay, nền kinh tế nước ta chịu rất nhiều sự tác động tiêu cực bởi sự bất ổn tài chính của các nước trên thế giới và vấn đề nợ công của khu vực Châu âu. Đặc biệt thời điểm những tháng cuối năm 2008 và đầu
năm 2009, các NHTM gặp khó khăn về thanh khoản, khi đó NHNN đã thực hiện cung một khối lượng tiền đáng kể hỗ trợ các NHTM. Có thời điểm lãi suất liên ngân hàng lên tới 43%/năm, NHNN đã kịp thời can thiệp thông qua TTM bằng việc tăng lượng cung tiền và áp dụng phương thức đấu thầu khối lượng, ngay lập tức lãi suất liên ngân hàng giảm xuống mức 20%/năm. Từ năm 2007 đến nay, NHNN chủ yếu chào thầu đối với các phiên mua kỳ hạn GTCG để tiếp tục hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM.
Bảng 2.9- Khối lượng giao dịch nghiệp vụ Thị trường mở
từ năm 2007 đến tháng 9/2012
Đơn vị: Tỷ đồng
Khối lượng dự kiến | Khối lượng đăng ký hợp lệ | Khối lượng trúng thầu | ||
Mua | Bán | |||
2007 | 2.006.100 | 718.578 | 60.495 | 356.844 |
2008 | 1.359.823 | 4.030.675 | 947.206 | 88.860 |
2009 | 1.113.000 | 3.613.330 | 966.811 | 100 |
2010 | 2.898.000 | 4.031.749 | 2.101420 | 7.295 |
2011 | 2.992.000 | 5.973.652 | 2.440.045 | - |
Tháng 1/2012 | 244.000 | 343.082 | 208.008 | |
2/2012 | 94.000 | 89.908 | 47.770 | |
3/2012 | 89.000 | 105.936 | 28.278 | 29.412 |
4/2012 | 22.000 | 9.891 | 9.057 | 51.422 |
5/2012 | 46.000 | 98.078 | 6.438 | 23.942 |
6/2012 | 75.000 | 22.733 | 5.475 | 3.060 |
7/2012 | 110.000 | 7.114 | 2.026 | 0 |
8/2012 | 160.000 | 45.852 | 34.428 | 0 |
9/2012 | 95.000 | 43.878 | 43.878 | 0 |
Nguồn: Báo cáo hoạt động NVTTM của NHNN
Diễn biến NVTTM thời gian qua ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của NVTTM trong điều tiết vốn khả dụng của các TCTD. Tỷ trọng doanh số giao dịch mua có kỳ hạn qua NVTTM trong tổng doanh số hỗ trợ vốn của NHNN qua các kênh như cầm cố, chiết khấu GTCG, hoán đổi ngoại tệ ngày càng tăng.
Với hiệu quả rõ rệt của NVTTM trong việc đáp ứng nguồn vốn khả dụng của các TCTD, số lượng thành viên tham gia NVTTM cũng ngày càng tăng. Năm 2007, tổng số thành viên tham gia là 44 TCTD. Đến nay, con số này khoảng 60 TCTD. Các chi nhánh ngân hang nước ngoài tại Việt Nam trước đây chỉ tham gia giao dịch bán GTCG, nay đã tham gia cả giao dịch mua. Số lượng thành viên tham gia đấu thầu NVTTM cũng ngày càng tăng. Năm 2007, có 21 TCTD, đến năm 2008 là 34 TCTD, tăng 60% so với năm 2007 và năm 2011 số lượng thành viên tham gia đấu
thầu là 48 thành viên. Các loại hình TCTD tham gia ngày càng đa dạng, bao gồm: 5 NHTMNN (doanh số trúng thầu chiếm tỷ trọng 45%), 23 NHTMCP (chiếm 52.5%), 9 ngân hàng liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài (chỉ chiếm 2.5%).
-Thị trường mua, bán có kỳ hạn GTCG giữa các tổ chức tài chính
Hiện nay, các giao dịch mua, bán có kỳ hạn song phương qua NVTTM giữa NHNN với các TCTD chiếm ưu thế trên thị trương mua, bán có kỳ hạn. Các hoạt động mua, bán có kỳ hạn giữa các tổ chức tài chính ( Giao dịch giữa các tổ chức tài chính trên thị trường tiền tệ, ngoại trừ NHNN) ở Việt Nam còn tương đối ít. Phần lớn các giao dịch này là giao dịch giữa các TCTD và các công ty chứng khoán, hoặc giữa các TCTD với nhau (trong đó chủ yếu là giao dịch giữa các TCTD), các doanh nghiệp chưa quan tâm đến hoạt động này do lãi suất trái phiếu Chính phủ còn thấp, chưa hấp dẫn.
Qua đợt khảo sát thị trường mua, bán GTCG tại Việt Nam trong tháng 4/2009 vừa qua của chuyên gia ADB, chuyên gia ADB cho rằng phần lớn các giao dịch mua, bán có kỳ hạn GTCG tại Việt Nam là các giao dịch bán/mua lại chứ không phải là giao dịch mua lại (repo). Giao dịch repo được thừa nhận là một công cụ hữu ích trên TTTT của các nước vì nó giúp điều chỉnh trôi chảy vốn khả dụng giữa các thành viên. Tại hầu hết các thị trường tài chính phát triển, giao dịch repo luôn giữ vai trò công cụ phổ biến và linh hoạt nhất, với khối lượng giao dịch chiếm tỷ trọng lớn trong các giao dịch chứng khoán. Việc tách bạch thông tin về khối lượng, quy mô, kỳ hạn của các giao dịch repo cần phải được cung cấp cho các nhà hoạt động chính sách để giám sát sự phát triển của thị trường. Việc theo dõi, giám sát đầy đủ các thông tin về giao dịch repo là rất cần thiết vì nó giúp ngăn chặn thổi phồng mức vốn khả dụng của các TCTD, hoặc thổi phồng giá, hoặc đưa các chứng khoán thiếu tin cậy ra khỏi bảng cân đối tài sản.
Đến nay, vẫn còn một số TCTD chưa từng thực hiện giao dịch repo. Theo số liệu báo cáo của 40 TCTD gồm TCTDNN, TCTDCP, NH liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, đến tháng 02/2009 mới chỉ có 19/40 TCTD có thực hiện hoạt động repo, 21/40 TCTD còn lại chưa có phát sinh hoạt động này. Doanh số giao dịch năm 2007 của 15/40 TCTD đạt 22.500 tỷ đồng Năm 2008, tổng doanh số giao dịch giảm xuống còn 12.500 tỷ, số dư nghiệp vụ mua, bán kỳ hạn giá GTCG đến 31/12/2008 là 6.700 tỷ đồng. Các GTCG được giao dịch trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu NHPT, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền địa phương (TP.Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh), trái phiếu của một số NHTM NN lớn (Agribank, BIDV) và trái phiếu của các doanh nghiệp lớn như Tổng công EVN, Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Vinashin, trong đó, giao dịch repo trái phiếu chính phủ chiếm ưu thế. Thời hạn thực hiện giao dịch repo chủ yếu từ 01 tuần đến 03 tháng. Trong số các TCTD, NH Ngoại thương VN là đơn vị đi đầu trong hoạt động repo.
(2)- Hiện trạng thị trường tín dụng ngắn hạn
Khi nghiên cứu thị trường tiền tệ mở rộng, sẽ là không đầy đủ nếu như không tìm hiểu thị trường tín dụng, một thị trường truyền thống hiện vẫn giữ vị trí quan trọng nhất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thể hiện cụ thể qua các nghiệp vụ đi vay và cho vay của các ngân hàng với các khách hàng của họ. Hiện nay, thị trường tín dụng vẫn đem lại tỷ trọng cao trong tổng doanh thu của các ngân hàng đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam.
Thị trường tín dụng của hệ thống NHTM Nhà nước Việt Nam (Bao gồm cả NHTM.NN đã cổ phần hoá).
Hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Nhà nước đã có nhiều tác động quan trọng tới quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Bởi vì hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM Nhà nước nói riêng, hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung có những thay đổi tương đối căn bản, môi trường luật pháp tiếp tục được hoàn chỉnh hơn, đặc biệt là sự ra đời 02 Luật ngân hàng có hiệu lực thi hành kể từ 01/01/2011.
- Thu hút vốn
+ Vốn huy động
Vậy là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động của hệ thống NHTM Nhà nước và cũng là nguồn vốn tín dụng chủ lực trong hệ thống các TCTD ở Việt Nam. Kể từ khi hoạt động với tư cách là ngân hàng kinh doanh, việc mở rộng và tăng trưởng nhanh quy mô nguồn vốn huy động là một trong những thành tựu nổi bật trong hoạt động của hệ thống NHTM Nhà nước. Qua đó góp phần quan trọng khuyến khích tiết kiệm, nâng cao khả năng tích lũy cho đầu tư phát triển, phát huy sức mạnh nội lực của nền kinh tế, là cơ sở để mở rộng tín dụng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu