Diễn Biến Huy Động Vốn, Đầu Tư Gửi Tiền, Cho Vay Trên Tt Liên Ngân Hàng Đến Tháng 9 Năm 2012


các kỳ hạn ngắn, chứng tỏ vốn vay của các ngân hàng chủ yếu đáp ứng khả năng thanh khoản.

Năm 2010, với hiệu lực của hai bộ Luật TCTD và Luật NHNN và thực hiện theo lộ trình cam kết WTO, NHNN đã ban hành thông tư 07/2010/TT-NHNN ngày 26/2/2010 cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận, đây là quyết định được cho là khai thông nguồn vốn trên thị trường, giúp quan hệ cung cầu vốn trên thị trường phản ảnh chính xác hơn.

Tuy nhiên, hiệu lực vào ngày 01/10/2010 của Thông tư 13/2010/TT-NHNN, bắt đầu từ tháng 9/2010, lãi suất huy động trên thị trường liên tục tạo sóng. Mục tiêu của NHNN là làm giảm mặt bằng lãi suất xuống khoảng 10,5% -11%/năm.Thực tế các NHTM đều phải huy động với lãi suất cao hơn nhằm chuẩn bị nguồn đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp vào thời điểm cuối năm. Cá biệt ở một số thời điểm, lãi suất được đẩy lên tới 17% -18%/năm, cụ thể như NHTMCP Kỹ Thương đã huy động 17%/năm trong 3 ngày 8-9-10/12/2010. Qúa trình tăng lãi suất theo nhiều hình thức đã làm gia tăng chi phí huy động vốn của các NHTM, kéo theo lãi suất cho vay cũng tăng lên nhanh chóng, có NHTM đã cho vay với lãi suất từ 23% - 27%/năm. Lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng có thời điểm lên tới 30%/năm. Đồng thời cuộc chạy đua tăng lãi suất cộng các chi phí theo nhiều hình thức khác nhau đã đẩy cuộc cạnh tranh về giá ngày càng trở nên khốc liệt giữa các NHTM. Trong bối cảnh lạm phát ở mức cao, NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, hạn chế cho vay bất động sản và kinh doanh chứng khoán. Lãi suất cho vay trên thị trường không ngừng biến động mạnh.

Trong tháng 11/2011, lãi suất VND qua đêm phổ biến từ 13-15%; 1 tuần 15%- 17%; 2 tuần 16%-18%; 1 tháng 18%-19% đã giảm đáng kể so với tháng 10/2011. Cao hơn nhiều so với huy động từ dân cư (14%), nhiều người lo ngại rằng LS liên ngân hàng tăng cao là dấu hiệu của sự thiếu thanh khoản của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ rất dễ dẫn đến sự đổ vỡ. Các chuyên gia kinh tế cho biết LS liên ngân hàng tăng cũng không quá đáng ngại. Vì LS liên ngân hàng chỉ phản ánh trong chu kỳ ngắn hạn, nếu mức tăng cứ diễn ra đều đều và liên tục theo tháng mới đáng bàn, hiện tại mới diễn ra theo tuần là chủ yếu. LS liên ngân hàng tăng cao, cũng một phần do tác động điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước tăng LS tái cấp vốn từ 14% một năm lên 15%, LS cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử


liên ngân hàng từ 14% lên 16% mỗi năm, áp dụng từ ngày 10/2010 cũng là một nhân tố đẩy LS liên ngân hàng dâng cao.

Kể từ khi Thông tư 30/2011/TT-NHNN được ban hành, quy định LS tối đa với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng là 6%/năm, LS huy động nhìn chung đi vào khuôn khổ ở mức 14%/năm. Trong thời gian qua, trần LS tuy còn một số vấn đề chưa đạt yêu cầu nhưng về cơ bản đã phát huy hiệu quả tích cực, lập lại trật tự trên thị trường tiền tệ. Các NHTM lớn tiếp tục khẳng định sức mạnh; các ngân hàng nhỏ gặp khó khăn hơn về huy động vốn, có thể dẫn tới căng thẳng về thanh khoản. Vừa qua, việc BIDV cam kết hỗ trợ thanh khoản 8.000 tỷ đồng cho BacAbank và GPBank là một dấu hiệu của điều này.


Biểu đồ 2 3 Diễn biến lãi suất VNĐ liên ngân hàng Một số NHTM CP nhỏ do cho 1


Biểu đồ 2.3- Diễn biến lãi suất VNĐ liên ngân hàng

Một số NHTM CP nhỏ do cho vay lĩnh vực phi sản xuất quá cao nên đã có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Để đảm bảo an toàn hệ thống, NHNN đã cho các NH này vay tái cấp vốn và khuyến khích các NHTM lớn tiếp tục “bơm” vốn hỗ trợ thanh khoản qua thị trường lên ngân hàng. Để hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp trực tiếp SXKD, khơi thông nguồn vốn phục vụ nền kinh tế, NHNN đã điều chỉnh Thông tư 13/2010/TT-NHNN bằng thông tư 19/2010/TT-NHNN theo hướng nới lỏng qui định về các giới hạn về nguồn vốn cấp tín dụng đối với các TCTD. Đồng thời, nhằm lập lại kỷ cương của thị trường, NHNN đã điều hành trần lãi suất huy động bằng Thông tư 02/2011/TT-NHNN và Chỉ thị 02/2011/CT-NHNN, Thông tư 30/2011/TT-NHNN. Với một loạt các biện pháp hành chính, xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm đã lập lại sự bình ổn cho thị trường.


Bảng 2.4- Diễn biến huy động vốn, đầu tư gửi tiền, cho vay trên TT liên ngân hàng đến tháng 9 năm 2012

Đơn vị:Tỷ đồng


TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Huy động vốn và đầu tư cho vay trên thị trường liên ngân hàng

Huy động vốn/nhận tiền gửi

Đầu tư gửi tiền/cho vay


Năm 2010


Năm 2011


Th9/2012


% Tăng, Giảm(-) 2011 so 2010


Năm 2010


Năm 2011


Th 9/2012


% Tăng, Giảm(-) 2011 so 2010

VIETINBANK

74,939

74.419

61.978

-520

50,508

66.170

40.923

15.662

BIDV

52,279

53.127

77.529

848

59,595

58.868

46.613

-727

VCB

69,766

70.246

82.031

480

78,124

78.124

103.473

-467

AGRIBANK

69,918

58.147

27.849

-11.771

41,178

41.303

18.073

125

Khối TCTD N/nước

341,778

255.939

260.257

-85.839

244,283

244.465

212.061

182

SACOMBANK

20,372

25.145

7.304

4.773

16,452

19.752

13.268

3.300

NGÂN HÀNG ACB

37,626

43.567

25.699

5.941

34,160

44.739

35.205

10.579

TECHCOMBANK

35,874

38.754

39.992

2.880

25,564

32.506

28.911

6.942

Khối TCTD cổ phần

458,768

332.851

425.849

-125.917

361,245

458.781

392.258

97.536

Toàn hệ thống

1,079,441

795.669

686.106

-283.772

857.000

1.015.970

604.319

158.970

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.

Nguồn:Báo cáo hoạt đồng cho vay, gửi tiền của các TCTD của NHNN Đặc biệt, trong những tháng đầu năm 2012, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng (Thị trường 2) liên tục giảm xuống ở mức thấp trong khi lãi suất huy động từ doanh nghiệp và dân cư (Thị trường 1) lại ở mức khá cao. Hiện tượng này chưa xảy ra trong cùng kỳ nhiều năm qua. Các giao dịch chủ yếu (Tháng 4/2012) chỉ dao động trong mức 5,5 - 6,5%/năm; một tuần từ -7,5%/năm; hai tuần từ 7,5 - 8%/năm và một tháng từ 10,5 -11%/năm. Thị trường có nghịch lý tồn tại, đó là lãi suất cho vay doanh nghiệp vẫn rất cao (18%/năm – 22%/năm) trong khi lãi suất liên ngân hàng lại rất thấp. Trên thực tế, trước đó, lãi suất liên ngân hàng cũng đã khá thấp. Cụ thể, trong tuần từ 2/4 đến 6/4, trước thời điểm NHNN hạ trần lãi suất huy động xuống 12%/năm, lãi suất liên ngân hàng theo công bố của NHNN thấp hơn so với các loại lãi suất khác trên thị trường tiền tệ và tiếp tục có xu hướng giảm. Lãi suất VND qua đêm bình quân là 10,34%/năm; 1 tuần là 8,9%/năm; 2 tuần là 9,17%/năm và 1 tháng là 11,98%/năm. Các mức lãi suất này giảm từ 0,1 - 1,5% so với tuần

trước đó.

Sang những tháng cuối năm, lãi suất thị trường liên ngân hàng tiếp tục giảm xuống thấp hơn. Một số NHTM đã có hiện tượng dư thừa nguồn vốn khả dụng VNĐ. Thực tế hiện nay, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đang không phản ánh đúng thực chất của thị trường, bởi các ngân hàng lớn hiện thừa thanh khoản nhưng chỉ đầu tư vào tín phiếu kho bạc nhà nước, cho vay lẫn nhau hoặc thậm chí không


cho vay liên ngân hàng. Còn những ngân hàng nhỏ hầu như không “chen” được vào thị trường này mà nếu có thì buộc phải có tài sản bảo đảm khi giao dịch. Nhưng không phải ngân hàng nhỏ nào cũng có tài sản thế chấp để vay liên ngân hàng, có hai yếu tố khiến lãi suất trên thị trường liên ngân hàng thấp. (i)-Thứ nhất, thị trường này hiện đang “dồn” ở những ngân hàng thuộc nhóm G14 (14 NHTM lớn nhất) và ngân hàng nước ngoài. Nguyên nhân của hiện tượng này chủ yếu do yếu tố lịch sử: từ quý IV/2011, số lượng ngân hàng nhỏ, thanh khoản kém, gặp khó khăn trong trả nợ xuất hiện nhiều. Rõ ràng, một bộ phận thành viên chưa thể gia nhập lại vào thị trường cũng khiến thị trường vận động chưa thực sự hoàn hảo. (ii)-Thứ hai và cũng là lý do chính yếu nhất là các ngân hàng thương mại bị hạn chế tăng trưởng tín dụng do số khách hàng đáp ứng được điều kiện vay vốn giảm. Do vậy, khi lượng tiền huy động được từ dân cư vẫn tăng nhẹ, thì các ngân hàng thuộc nhóm G14 sẽ dư thừa tương đối nguồn tiền gửi. Cung cao thì giá hạ, đó là quy luật. Các thành viên trong hệ thống ngân hàng vẫn tham gia đầy đủ trên thị trường liên ngân hàng nhưng mức độ khác nhau. Lãi suất thấp thể hiện thanh khoản tốt trên thị trường, trong khi đó, cho vay không tăng trưởng được như kế hoạch. Do vậy, các ngân hàng đang phải cân đối lại các phương án hoạt động, điều chỉnh cả đầu vào và đầu ra. Nhưng dù sao, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng có thấp cũng chỉ thấp trong ngắn hạn và chắc chắn sẽ phải tự điều chỉnh về đúng quy luật là cao hơn lãi suất huy động từ dân cư. Lãi suất liên ngân hàng thấp thể hiện sự cung ứng vốn của NHNN thông qua các ngân hàng lớn sẽ định hình lãi suất trên thị trường, đây là sự điều tiết của NHNN và cũng là biểu hiện dư tiền trong hệ thống.

Có thể dễ dàng hình dung mục tiêu tổng quát mà NHNN hướng đến khi thực hiện 7 nhóm giải pháp trong việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng (NH) là giảm nhanh NH yếu kém và xây dựng số ít các NH có thực lực mạnh đủ sức cạnh trạnh với khu vực cũng như làm trụ cột cho cả hệ thống NH trong nước. Các nhóm giải pháp tái cấu trúc này sẽ được NHNN thực hiện trong giai đoạn từ nay đến 2015 với nhiều giai đoạn cụ thể khác nhau. Trong các giải pháp trên, định hướng giảm nhanh các NH yếu kém kéo dài được dư luận đặc biệt quan tâm. Đặc biệt sau thương vụ sáp nhập ba NHTM cổ phần Ficombank, TinNghiaBank và SCB mới đây. Quá trình tái cấu trúc các NH này có thể được thực hiện theo phương châm dùng các tổ chức có


quy mô lớn hơn và tình hình tài chính lớn hơn để tham gia vào việc tái cấu trúc các tổ chức tín dụng nhỏ hơn.

Thông thường dịp cuối năm, thị trường liên NH sẽ hoạt động sôi động. Tuy nhiên, hiện dòng vốn trên thị trường LNH có dấu hiệu tắc nghẽn khi nhiều NHTM lớn có vốn nhưng không dám bơm qua thị trường này. Đó là do nguyên nhân các TCTD chỉ quyết định cho vay không quá 50% tài sản thế chấp. Hiện nay, nguồn vốn trên liên ngân hàng không thiếu, nhưng các NHTM lớn khi cho vay yêu cầu các NHTM nhỏ phải có tài sản thế chấp có tính thanh khoản cao như vàng, ngoại tệ (không nhận thế chấp bằng trái phiếu dù là trái phiếu của chính NH cho vay phát hành) và khi thế chấp NH chỉ cho vay không quá 50% tài sản thế chấp. Hạn mức cho vay trên tài sản thế chấp còn thấp hơn trên thị trường cho vay ngắn hạn. Có thế thấy yêu cầu thế chấp xuất phát từ việc một số NHTM đã khất nợ trên thị trường liên NH. Thực tế có NHTMCP lớn hiện nay cho vay trên thị trường liên NH 7.000-

10.000 tỷ đồng, trong đó 1 nửa thế chấp và 1 nửa tín chấp, nhưng vẫn chưa thu hồi được.Vì vậy, sự thận trọng của các NHTM lớn là điều cần thiết. Tuy nhiên, sự chặt chẽ trong cho vay của các NHTM lớn đã làm các NHTM nhỏ đã khó càng khó hơn.Trước tình hình này, nhiều ý kiến cho rằng NHNN cần đứng ra làm đầu mối yêu cầu các NH lớn hỗ trợ NH nhỏ và các NHTM nhỏ phải cam kết với NHNN thực hiện đúng theo thỏa thuận. Có như vậy mới khai thông được thị trường liên NH. Ngoài ra, NHNN cũng cần tiếp tục bơm vốn qua thị trường mở. Trước lo ngại việc NHNN bơm tiền ra có thể gây lạm phát, một chuyên gia NH cho rằng việc tăng tổng phương tiện thanh toán còn tùy thuộc vào hệ số nhân tiền. Một khi NHNN đã khống chế tăng tín dụng, dù tiền cơ sở tăng, hệ số tạo tiền bị kiểm soát thì tổng phương tiện thanh toán không tăng cao, sẽ không ảnh hưởng đến lạm phát.

Việc đưa hoạt động vay và cho vay trên thị trường Liên ngân hàng đi vào nề nếp sẽ giúp dòng vốn tín dụng NH được sử dụng hiệu quả hơn. Kiểm soát chặt nguồn vốn vay trên liên NH còn tránh được tình trạng các NHTM “sống trên lưng” của nhau, chấm dứt việc một số NH quốc doanh lớn được cơ chế ưu đãi vay vốn từ NHNN với lãi suất rẻ, cho vay cắt cổ các NHTM bạn với lãi suất cao.NHNN ban hành Thông tư 21/2012/TT-NHNN ngày 18/6/2012 quy định về hoạt động cho vay, đi vay; mua, bán có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các TCTD, chi nhánh ngân hàng


nước ngoài và Thông tư 01/2013/TT-NHNN ngày 07/01/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều khoản tại Thông tư 21/2012/TT-NHNN ngày 18/6/2013.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng hiện nay nhiều NHTM nhỏ vẫn có tâm lý ngại tiếp cận vốn trực tiếp từ NHNN vì sợ “lộ” chuyện làm ăn khuất tất. Vì vậy, hy vọng từ năm 2012, khi NHNN đã phân định và công bố được sức khỏe của các NHTM, NHNN sẽ có cơ chế phù hợp quản lý đưa hệ thống NH đi vào hoạt động và kinh doanh một cách minh bạch, rõ ràng và an toàn.

Mặc dù, chưa xảy ra tranh chấp nào lớn liên quan tới giao dịch cho vay, gửi tiền liên ngân hàng, tuy nhiên, năm 2011, thị trường đã xuất hiện những trường hợp các TCTD đi vay, nhận tiền gửi từ TCTD khác nhưng không hoàn trả tiền đúng thời hạn. Bên cạnh đó, cũng có trường hợp một số NHTM CP nhỏ sử dụng vốn huy động qua TTCVGT liên ngân hàng chủ yếu với mục đích mở rộng tín dụng, cho vay bất động sản, kinh doanh chứng khoán vượt giới hạn cho phép. Điều này có tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về thanh khoản khi có sự biến động của thị trường. Hiện nay, NHNN đang nghiên cứu nhằm tái cấu trúc hệ thống ngân hàng theo hướng sắp xếp, nâng cao khả năng quản trị điều hành của các NHTM để đảm bảo an toàn hệ thống. Có thể thực hiện việc sáp nhập một số NHTM hoạt động yếu kém, đảm bảo cho thị trường nội tệ liên ngân hàng trở nên minh bạch phát triển ổn định.

(2) Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (ngoại hối)

Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thực hiện các giao dịch giao ngay (Spot), giao dịch có kỳ hạn (Forward), nghiệp vụ hoán đối (Swap), nhưng mức độ và phạm vi của từng loại giao dịch có khác nhau, phần lớn là thực hiện giao dịch giao ngay còn rất ít giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi. Tất cả được tuân thủ quy trình giao dich: NHNN công bố tỷ giá và quy định giới hạn mức gia tăng cho phép, các thành viên trên thị trường phải chào cả tỷ giá mua và tỷ giá bán kèm theo số lượng ngoại tệ mua, bán. Sau một thời gian thực hiện doanh số giao dịch trên thị trường ngày càng tăng: Năm 2003 chỉ ở mức 254 triệu USD thì đến nay đạt giao dịch hàng tỷ USD.


40000

35000

30000

25000

Doanh số giao dịch

20000

15000

10000

5000

0

2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012


Biểu đồ 2.4- Doanh số giao dịch ngoại tệ bình quân tháng năm 2005 – 2012

Nguồn: Báo cáo tình hình giao dịch ngoại tệ năm của NHNN Đặc điểm hoạt động của thị trường: giao dịch giao ngay chiếm tỷ trọng ngày

càng lớn, giao dịch kỳ hạn chỉ chiếm 1/4 tổng giao dịch. Giao dịch hoán đổi đã

được sử dụng song chủ yếu là để giải quyết nhu cầu bổ sung vốn khả dụng bằng VND cho một số NHTM, tỷ trọng giao dịch hoán đổi chỉ có 8% trong tổng giao dịch mà chủ yếu là đổi USD ra VND cho NHTM nhà nước. Giao dịch chính thức trên thị trường liên ngân hàng chỉ chiếm khoảng 15%, còn giao dịch chủ yếu thực hiện tại các NHTM chiếm 85%.

Cơ chế tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng của mỗi quốc gia. Tỷ giá giao dịch giữa USD và VNĐ trên thị trường Việt Nam được thoả mãn trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trong phạm vi quy định của NHNN với giới hạn một biên độ giao dịch, tối đa không vượt quá một tỷ lệ (%) nhất định.

Kể từ năm 2007giai đoạn sau khi gia nhập WTO - tỷ giá biến động khá phức tạp, diễn biến của tỷ giá hối đoái giữa USD với Euro, giữa USD/JPY cũng như sự biến động tỷ giá giữa USD/VND. Trong giai đoạn này cho thấy, tỷ giá luôn là vấn đề thời sự, rất nhạy cảm. Tỷ giá hối đoái không chỉ tác động đến xuất nhập khẩu, cán cân thương mại, nợ quốc gia, thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến niềm tin của dân chúng.


Năm 2008, tỷ giá USD/VNĐ tăng đột biến, đây là năm đặc biệt của cơ chế điều hành tỷ giá cũng như những biến động trên thực tế hết sức phức tạp. So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND mua vào – bán ra của các ngân hàng thương mại đã tăng khoảng 9%, một mức tăng đột biến so với thay đổi quen thuộc quanh 1% như những năm trước đây. Năm 2008 cũng là năm biên độ tỷ giá liên tiếp 3 lần nới rộng, 2 lần được tăng mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Tính chất đặc biệt của tỷ giá năm 2008 cũng thể hiện ở những biến động trái chiều. Đầu năm, xuất hiện diễn biến hiếm hoi trong lịch sử thị trường tiền tệ Việt Nam là tỷ giá của các NHTM thấp hơn tỷ giá bình quân liên ngân hàng, do cung ngoại tệ khá dồi dào.

Năm 2009, được coi là một năm có nhiều biến động đối với TTTT. Có thể nói Việt Nam đã vượt qua đáy suy thoái kinh tế, nhưng TTTT vẫn không ổn định do độ co dãn hẹp, mức độ rủi ro cao. Mặc dù lãi suất cơ bản được giữ khá lâu ở mức 7% để kích cầu, nhưng điều này cũng không giảm được những biến động trên TTTT. Lãi suất và tỷ giá liên tục biến động với nhiều dấu hiệu bất thường.

Không ít thời điểm, tỷ giá trên thị trường tự do có độ vênh lớn so với thị trường chính thức, khiến cho tình trạng đôla hóa nền kinh tế càng tăng, tạo điều kiện cho hoạt động găm giữ, đầu cơ, lũng đoạn thị trường, tác động xấu đến thị trường ngoại hối. Vì vậy, NHNN đã phải liên kết với một số Bộ/Ngành, UBND Tp. Hà Nội, Tp.HCM tăng cường kiểm soát hoạt động mua bán ngoại tệ, vàng trên thị trường tự do. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã phải điều chỉnh tỷ giá lần thứ hai bằng cách nâng tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 17.034 lên 17.961VND/USD, cùng với việc thu hẹp biên độ từ +/-5% xuống +/-3% vào ngày 25/11/2009. Mục tiêu của lần điều chỉnh này nhằm bình ổn giá USD trên thị trường, làm cho tỷ giá hối đoái do NHNN công bố phản ánh sát hơn tín hiệu thị trường. Việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã tác động không nhỏ tới sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong khi các DN xuất khẩu được hưởng lợi từ tăng tỷ giá, thì đa số các doanh nghiệp khác, đặc biệt là các DN nhập khẩu, cùng với các tổ chức, cá nhân... đều chịu áp lực chính từ sự tăng giá của USD.

Trước tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về cung cầu do một lượng lớn ngoại tệ được hút vào sàn giao dịch vàng, cũng như các DN có ngoại tệ thu được từ hoạt động kinh doanh lại găm trên tài khoản, không bán cho các ngân hàng. Vì vậy Chính phủ phải dùng biện pháp hành chính yêu cầu 06 Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước phải bán ngoại tệ cho ngân hàng để tăng cung cho thị trường, các NHTM

Xem tất cả 249 trang.

Ngày đăng: 14/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí