NHTW ở các nước này cho phép cân bằng vốn khả dụng trên thị trường tiền tệ trước khi cấp vốn thông qua thể thức chiết khấu và thường là phải chịu lãi suất phạt, hoặc các giao dịch trên thị trường mở như các thỏa thuận mua bán lại.
Thứ ba, thiếu tính đa dạng các công cụ tài chính mới các ngân hàng có thể nắm giữ hoặc bán trên thị trường thứ cấp để quản lý vốn khả dụng. Đó là tín phiếu kho bạc hoặc tín phiếu NHTW, thoả thuận mua lại, thương phiếu hoặc chứng chỉ tiền gửi, tạo ra chiều sâu và bề rộng của thị trường tiền tệ. Việc giao dịch các công cụ này giữa các ngân hàng diễn ra thuận lợi do được bảo đảm là NHTW có thể tái chiết khấu hoặc mua chúng theo giá thị trường hoặc là tiến hành các thoả thuận bán – mua lại. Thoả thuận bán – mua lại tạo ra khả năng thanh toán cần thiết cho các công cụ trên thị trường thứ cấp.
Thứ tư, xây dựng thị trường liên ngân hàng phát triển, có tính chuyên nghiệp cao. Tạo mối liên hệ giữa thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng đủ chặt chẽ để chuyển tải kịp thời và đầy đủ các thay đổi về thông tin từ thị trường này sang thị trường khác. Đặc biệt chú trọng đến tính liên thông giữa thị trường tiền tệ nội địa với thị trường tiền tệ quốc tế nhằm giải quyết vấn đề bù đắp thiếu hụt hay dư thừa thanh khoản giữa các thị trường. Chẳng hạn như thị trường LNH các nước Châu Âu, nếu thị trường có tín hiệu mất rủi ro thanh toán thì không chỉ có NHTW các nước, NH chung ECB mà còn có các tổ chức chuyên nghiệp hay các ngân hàng lớn có khả năng hỗ trợ thị trường rất tốt.
Thứ năm, các ngân hàng tham gia thị trường tiền tệ nói chung khá lành mạnh, do đó các ngân hàng có thể giao dịch với ngân hàng khác mà không sợ rủi ro quá mức. Thậm chí khi các ngân hàng có những khoản tín dụng quá hạn hoặc tồn đọng thì rủi ro cũng có thể giảm do có tài sản thế chấp tốt là tín phiếu kho bạc hoặc tín phiếu NHTW. Sự minh bạch thông tin và tính hợp tác chặt chẽ của các chủ thể trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Thực tế các NHTW nắm bắt thông tin thị trường nhanh chóng và chính xác các nhu cầu của các ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng. Cơ chế lưu chuyển rất linh hoạt và hiện đại đã giúp các ngân hàng ngăn chặn được những thiếu hụt trầm trọng về thanh khoản.
Thứ sáu, các ngân hàng nước ngoài không bị hạn chế trong việc huy động tiền gửi trong nước hoặc cho người trong nước vay,do đó các ngân hàng này có thể cạnh tranh ngang bằng với các ngân hàng trong nước. Nới lỏng hạn chế các ngân hàng
nước ngoài trong việc huy động tiền gửi trong nước hoặc cho người trong nước vay, tăng dần tỷ trọng sở hữu nước ngoài đối với các ngân hàng trong nước nhưng quyền kiểm soát các ngân hàng trong nước vẫn nằm trong tay cổ đông Việt Nam.Tạo điều kiện để tất cả các định chế tài chính hoạt động lành mạnh trở thành thành viên của thị trường liên ngân hàng, qua đó góp phần giảm thiểu rủi ro cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng.
Thứ bảy, các giao dịch vay và cho vay có thể được thực hiện thông qua người môi giới tiền tệ và nên có thời hạn từ 1 – 15 ngày. Giao dịch vay nóng trên thị trường liên ngân hàng không cần tài sản thế chấp, nhờ vậy hạn chế tối thiểu tài sản thế chấp trên thị trường liên ngân hàng.
Thứ tám,tăng cường dự trữ thanh khoản hiện tại để phòng ngừa rủi ro. NHTW quản lý và điều hành đảm bảo linh hoạt bằng các chính sách phù hợp với sự phát triển của thị trường. Hệ thống các NHTM quan tâm chú trọng đến vấn đề dự phòng, dự trữ thanh khoản đảm bảo chủ động ứng phó, cân bằng với các tình huống. Hài hòa giữa chính sách rủi ro và lợi nhuận, giữa tăng trưởng nhanh và nguy cơ có thể bị suy giảm, mất cân bằng ngay sau đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Lý Luận Của Việc Phát Triển Thị Trường Tiền Tệ
- Sự Cần Thiết Phải Phát Triển Tttt Sau Khi Gia Nhập Wto
- Kinh Nghiệm Phát Triển Thị Trường Tiền Tệ Của Singapore
- Hiện Trạng Thị Trường Tiền Tệ Liên Ngân Hàng Việt Nam
- Diễn Biến Huy Động Vốn, Đầu Tư Gửi Tiền, Cho Vay Trên Tt Liên Ngân Hàng Đến Tháng 9 Năm 2012
- Diễn Biến Giá Usd Qua Các Tháng Trong Năm 2012
Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.
Hầu hết các nước Đông Á, lượng dự trữ vượt mức trong hệ thống ngân hàng rất nhỏ hoặc là do tỷ lệ dự trữ bắt buộc thấp, hoặc là do hệ thống thanh toán tốt, hoặc là do không có hạn mức tín dụng và trần lãi suất cho vay.
Thứ chín, thành lập Sàn giao dịch điện tử tập trung cho thị trường tiền tệ, ngoại hối, trái phiếu và công cụ phái sinh. Thông qua Sàn giao dịch, NHTW có thể kịp thời nắm bắt các thông tin, diễn biến về các thị trường này để phục vụ công tác điều hành chính sách tiền tệ, đồng thời, cung cấp thông tin cho các thành viên thị trường. Sàn giao dịch sẽ đóng vai trò là người tạo lập thị trường và đồng thời cũng là trung tâm thông tin của NHTW trên thị trường ngoại hối, tiền tệ. Hiện nay, việc theo dõi, thu thập thông tin kịp thời về TTTT rất cần thiết đối với NHNN Việt Nam. Tuy nhiên, việc xem xét, quyết định áp dụng mô hình này vào Việt Nam thì cần phải tính tới một các yếu tố:
- Chi phí đầu tư trang bị phần mềm, thiết bị (ước tính trên 1 tỷ USD);
- Lựa chọn nhà cung cấp;
- Nhân lực: Cần đào tạo, tuyển dụng nhân lực;
- Xử lý các vấn đề liên quan đến các hệ thống giao dịch hiện đang được các thành viên TTTT và ngoại hối sử dụng;
- Cần có sự nghiên cứu, phối hợp của các đơn vị liên quan và các thành viên thị trường.
Thứ mười, xây dựng quy tắc ứng xử và phát huy tính tự tuân thủ của các thành viên thị trường. Trong giai đoạn đầu phát triển thị trường, NHTW là cơ quan ban hành các quy tắc ứng xử cho thị trường. Sau một thời gian, các cơ quan quản lý nhận thấy việc quản lý hành chính gây cản trở cho sự phát triển của thị trường, vì vậy, đã hỗ trợ thành lập Hiệp hội các Tổ chức đầu tư trên thị trường tài chính để ban hành các quy tắc thị trường và phát triển tính tự tuân thủ của thành viên thị trường. Ở Việt Nam hiện đã có Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính, Hiệp hội Ngân hàng và Hiệp hội các nhà kinh doanh trái phiếu. Tuy nhiên, đến nay, các chuẩn mực giao dịch trên thị trường và các quy tắc ứng xử trên thị trường vẫn chưa ra đời. Vấn đề này cần có sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý Nhà nước, đặc biệt là NHNN, Bộ tài chính, Hiệp hội Ngân hàng và sự hợp tác của thành viên thị trường. Vai trò của các Hiệp hội trên cũng cần được phát huy hơn nữa.
Việt Nam đang từng bước chuyển kiểm soát tiền tệ từ các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp. Qúa trình phát triển thị trường tiền tệ ở các nước Đông Á có thể là những kinh nghiệm để chúng ta nghiên cứu, học tập và áp dụng vào thực tiễn Việt Nam.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
2.1. Khái quát chung về sự phát triển của thị trường tiền tệ ở Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng các nước trên thế giới phát triển theo hướng phân rõ trách nhiệm giữa một bên là Ngân hàng Trung ương với vai trò quản lý, giám sát thị trường tiền tệ cũng như thực hiện vai trò điều hành chính sách tiền tệ của đất nước, một bên là các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức tín dụng khác thực hiện kinh doanh tiền tệ thông qua các nghiệp vụ ngân hàng, trong khuôn khổ pháp luật và dưới sự giám sát của Ngân hàng Trung ương.
Để đổi mới hệ thống ngân hàng Việt Nam, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị định số 53/1988/NĐ-HĐBT mở đường cho việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng, tách chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ được giao cho các ngân hàng chuyên doanh. Tiếp theo, với hai Pháp lệnh ngân hàng ban hành năm 1990 là Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, công ty tài chính, sau đó đến hai Luật ngân hàng ra đời là Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1998, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã dần dần phân rõ thành hai cấp và hoạt động phù hợp với xu hướng chung trên thế giới. Mô hình này ngày càng được hoàn thiện và phát triển theo quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
Hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam với mạng lưới rộng khắp và thành phần đa dạng bao gồm quốc doanh, cổ phần, nước ngoài, liên doanh, đã thực sự đi vào kinh doanh tiền tệ, đi vay để cho vay là chủ yếu, chấm dứt tình trạng trông chờ vào nguồn vốn của ngân hàng trung ương để rồi sau đó “ban phát” với lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp. Điều này có được trước hết là nhờ những thành tựu trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, trên cơ sở đó thực hiện chính sách lãi suất thực dương, song song với công cuộc đổi mới các doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung.
Nhưng trong thực tế, nhất là từ năm 1993 trở về trước, chỉ duy nhất có thị trường tín dụng truyền thống hoạt động, các hình thức huy động vốn của NHTM và các tổ chức tín dụng còn rất đơn điệu, đơn thuần chỉ có hoạt động huy động tiền gửi và tiết kiệm. Trong khi nhu cầu vốn cho nền kinh tế thị trường là rất lớn, vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi nằm trong dân cư, các doanh nghiệp còn rất tiềm tàng, nhưng vì hình thức huy động quá đơn điệu, mặt khác các thị trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường giấy nợ ngắn hạn, v.v... chưa được hình thành và đi vào hoạt động. Nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước chưa được thực hiện nên nguồn vốn huy động của các NHTM còn rất mỏng, không đáp ứng kịp thời vốn cho nền kinh tế. Trước sự đòi hỏi cấp bách của thị trường về vốn, cần có sự đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, cần phải thành lập và hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt Nam trong đó cái gốc là phải thành lập và hoàn thiện thị trường tiền tệ. Bởi vậy năm 1993, thị trường nội tệ liên ngân hàng được hình thành, đi vào hoạt động. Sau đó, năm 1994, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng được thành lập và tiến hành các hoạt động nghiệp vụ. Năm 1995, thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc được thành lập và hoạt động sôi nổi. Các thị trường này là một bộ phận cấu thành thị trường tiền tệ ở Việt Nam.
Như vậy, bên cạnh thị trường tín dụng truyền thống, thị trường liên ngân hàng về nội tệ và ngoại tệ đã được tổ chức. Những phiên đấu giá tín phiếu kho bạc đầu tiên cũng như việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước đã tạo nên những công cụ đáng tin cậy cho thị trường tiền tệ có điều kiện phát triển hơn nữa.
Thị trường tiền tệ đã được thiết lập trong cơ cấu tài chính tại nước ta từ 1993. Mặc dù thị trường này chưa phát triển nhưng các bộ phận cấu thành của thị trường tiền tệ cũng đã hình thành ở mức độ nhất định. Theo cách tiếp cận trong phần này, tác giả sẽ xem xét thực trạng thị trường tiền tệ bao gồm 05 bộ phận căn cứ vào hoạt động của các chủ thể trên thị trường.
Thứ nhất là thị trường nội tệ liên ngân hàng, đó là thị trường giao dịch các khoản vốn giữa các NHTM với nhau thông qua hoạt động vay, gửi vốn lẫn nhau.
Thứ hai là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đó là thị trường mua, bán ngoại tệ có tổ chức giữa các tổ chức tín dụng là thành viên của thị trường, do Ngân hàng Nhà nước tổ chức, giám sát và điều hành.
Thứ ba là thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn, phổ biến ở nước ta hiện nay là thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc đã bước đầu đi vào hoạt động từ tháng 6 năm 1995.
Thứ tư là thị trường tín dụng với việc huy động vốn và cho vay vốn của hệ thống Ngân hàng Thương mại đối với nền kinh tế.
Thứ năm là hoạt động điều tiết của NHNN với việc điều hành của chính sách tiền tệ, để cung ứng nguồn vốn ngắn hạn cho hệ thống ngân hàng thương mại qua các nghiệp vụ như hoạt động thị trường mở, nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (SWAP ), tái cấp vốn và tái chiết khấu.
2.1.2- Những cam kết về lĩnh vực tiền tệ khi gia nhập WTO
Phát triển thị trường tiền tệ nhằm thực hiện những cam kết của Việt Nam với WTO trong lĩnh vực ngân hàng và lưu thông tiền tệ.
Trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam phải cải thiện hệ thống cơ chế chính sách theo hướng ngày càng hoàn thiện và minh bạch. Trong thoả thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng 110. Riêng ngành dịch vụ tài chính có 2 phân ngành lớn là dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ tài chính khác, chia thành 15 phân ngành cụ thể. Trong đó, ở lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng, các tổ chức tín dụng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam sẽ được phép thực hiện hầu hết các nghiệp vụ quan trọng như các ngân hàng trong nước. Các ngân hàng nước ngoài được mở rộng phạm vi và loại hình cung cấp dịch vụ, tạo sân chơi bình đẳng như các ngân hàng của Việt Nam. Theo đó, từ 01/4/2007, ngoài các văn phòng đại diện, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, NH liên doanh, các TCTD nước ngoài được thành lập NH 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Thực hiện cam kết này, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2006/NĐ-CP ngày 28/2/2006 qui định: (1)-Để được mở chi nhánh NH nước ngoài tại Việt Nam, NH mẹ phải có tổng tài sản hơn 20 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm mở chi nhánh. (2)-Để được thành lập NH liên doanh hoặc NH 100% vốn nước ngoài, vốn của NH mẹ phải ở mức tối thiểu là 10 tỷ USD; (3)-Để được mở công ty tài chính 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính liên doanh, TCTD nước ngoài phải có tổng tài sản hơn 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm xin phép.
Việc tham gia thị trường của các NH 100% vốn nước ngoài sẽ làm thay đổi thị phần hoạt động NH của nước ta trong thời gian tới, bởi vì các NH 100% vốn nước ngoài được đối xử bình đẳng như NH trong nước.
Các NH nước ngoài được phép hoạt động đối với một số lĩnh vực như sau:
(1)-Trong vòng 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một số chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo mức vốn mà ngân hàng mẹ cấp cho chi nhánh. Nhận tiền gửi của pháp nhân được thực hiện không giới hạn, nhưng đối với tiền gửi cá nhân được nâng dần theo thời gian, từ 01/01/2007 mức tối đa là 650% vốn pháp định của NH, tiến tới đối xử quốc gia đầy đủ vào năm 2011.
(2)-Về mạng lưới giao dịch: Các chi nhánh NH nước ngoài không được mở điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh, nhưng được phép lắp đặt và vận hành máy rút tiền tự động ATM, được phát hành thẻ tín dụng như NH trong nước.
(3)-Đối với việc tham gia góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng số cổ phần của các thể nhân và pháp nhân nước ngoài đối với NHTM cổ phần Việt Nam không quá 30% vốn điều lệ của NH, trừ phi luật pháp Việt Nam có qui định khác hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
(4)-It nhất 20% tổng số các nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia phải là công dân Việt Nam.Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp nước ngoài sẽ được phép có tối thiểu 3 nhà quản lý, giám đốc điều hành và chuyên gia không phải là người Việt Nam.
Với cam kết này, tuỳ theo mức độ và tốc độ chiếm lĩnh thị trường của các NH nước ngoài, NHNN TW có thể thông qua mức giới hạn cổ phần của cá nhân và pháp nhân được phép mua cổ phần của NHTM cổ phần Việt Nam, nhằm tạo điều kiện để các NH Việt Nam có thời gian nâng cao năng lực cạnh tranh trước khi các NH nước ngoài với tiềm lực tài chính hùng mạnh, trình độ quản trị NH vượt trội, nhiều dịch vụ phong phú và công nghệ cao được hoạt động đầy đủ như các NHTM Việt Nam.
2.1.3. Hiện trạng của các thị trường bộ phận trong mô hình TTTT Việt Nam
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, chủ động hội nhập với khu vực và thế giới, việc sớm hoàn thiện và phát
triển thị trường liên ngân hàng, trở thành công cụ vận hành của nền kinh tế có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO Nhà nước đã xây dựng, điều chỉnh và bổ sung các quy định về điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, phù hợp với các cam kết gia nhập WTO trong lĩnh vực ngân hàng và phù hợp với biến động ngày càng phức tạp trên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế.
Luật TCTD năm 2010 đã quy định các TCTD được tham gia TTTT (Điều
104) do NHNN tổ chức, gồm thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường GTCG khác theo quy định của NHNN. Theo quy định này, thị trường nội tệ liên ngân hàng chính là T hị trường T í n d ụ n g (cả nội và ngoại tệ) giữa các TCTD, còn thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính là thị trường ngoại hối hay thị trường mua bán ngoại tệ.
Trong giai đoạn 2006 – 2012, thị trường tiền tệ biến động mạnh, hoạt động ngân hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Vai trò điều tiết của Nhà nước đối với thị trường tiền tệ thông qua chính sách tiền tệ đã có tác động không nhỏ đến sự phát triển toàn bộ nền kinh tế, cũng như hệ thống thị trường, trong đó có TTTT. Việc NHNN điều hành chính sách tiền tệ trong những năm qua theo hướng mở rộng thận trọng để vừa góp phần tăng trưởng kinh tế vừa kiềm chế lạm phát, tuy nhiên mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn được ưu tiên hơn. Trong một số thời điểm (đầu năm 2008, cuối năm 2010, và từ năm 2011 đến nay) để hạn chế tốc độ gia tăng nhanh của lạm phát, NHNN đã sử dụng đồng bộ các công cụ, kể cả những biện pháp hành chính như áp dụng trần lãi suất huy động để thắt chặt tiền tệ. Tuy nhiên đánh giá chung chính sách tiền tệ của NHNN trong giai đoạn sau khi gia nhập WTO (2006 - 2011) có sự mở rộng khá nhanh:Tổng phương tiện thanh toán (M2) tăng bình quân 30,2%/năm, cao hơn mức tăng bình quân 23,2%/năm giai đoạn 2001 -2005, tín dụng cho nền kinh tế tăng bình quân tăng bình quân 33,2%/năm, cao hơn mức tăng bình quân 26,1%/năm của giai đoạn 2001 – 2006. Theo đó tỷ lệ M2/GDP đã tăng từ 0,97% lần năm 2006 lên mức 1,34 lần năm 2010 –mức cao so với các nước trong khu vực. Tỷ lệ tín dụng/GDP đã tăng từ 0,71 lần năm 2006 lên mức 1,16 lần năm 2010. Việc mở rộng quá nhanh chính sách tiền tệ trong khi tăng trưởng kinh tế không tương xứng là một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam.