doanh cần phải có sàn giao dịch tập trung, bên cạnh đó còn phát huy những ưu điểm của giao dịch tập trung là thông tin thị trường minh bạch công khai những người kinh doanh đều có cơ hội tiếp cận tỷ giá như nhau.
Ngoài ra, với đặc điểm là thị trường hoạt động toàn cầu 24 giờ/ ngày và cung cầu tiền tệ lại thường xuyên biến động bởi nhiều yếu tố về kinh tế, chính trị, xã hội, thiên tai, tâm lý con người… làm cho tỷ giá liên tục biến động nhất là những đồng tiền mạnh như USD, EUR, GBP, CHF, JPY. Vì thế, để kinh doanh có hiệu quả TTNH cần phải được trang bị những thiết bị thông tin hiện đại để thu được lợi thế thời gian về tiếp cận thông tin và thực hiện hoạt động mua bán ngoại tệ nhanh chóng hiệu quả.
1.3.6. Hệ thống quản lý giám sát thị trường tài chánh hoạt động hiệu quả
Theo Ralph, Connel và Sunsil Sharma [53] một vấn đề quan trọng trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng để hình thành khuôn khổ phát triển TTTC là phải có hệ thống pháp luật đảm bảo 3 tính năng cần thiết đó là: Thứ nhất, phải đảm bảo quyền tự do dân sự và quyền sở hữu. Thứ hai, một hệ thống tư pháp hoạt động hiệu quả hạn chế những hành vi gian lận. Thứ ba, người dân an tâm lập kế hoạch với những hiểu biết đầy đủ về luật pháp và không lo ngại sự thay đổi của nó. Những qui định và nguồn luật lỗi thời là nguyên nhân làm cản trở hoạt động của TTTC vì những công cụ phái sinh trên TTTC phát triển thường có những sản phẩm mới được sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng trong kinh doanh của những người tham gia thị trường.
Để tạo điều kiện cho TTNH hoạt động có hiệu quả mà vẫn đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính, cần phải có hệ thống luật pháp chặc chẽ và có các văn bản pháp lý qui định hướng dẫn cụ thể các giao dịch ngoại hối, nhằm đảm bảo quyền lợi của các chủ thể tham gia thị trường, tạo điều kiên cho thị trường vận hành theo khuôn khổ pháp luật. Dựa vào cơ sở đó để giám sát hoạt động của thị trường phát hiện kịp thời những hoạt động phá hoại làm lũng đoạn gây rối thị trường.
1.3.7. TTNH có sự liên thông với thị trường tài chính của khu vực và quốc
tế
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiệp Vụ Ngoại Hối Kỳ Hạn(Forex Forward Transaction)
- Chính Sách Quản Lý Ngoại Hối Đối Với Các Giao Dịch Trên Tài Khoản Vãng Lai
- Chính Sách Quản Lý Ngoại Hối Đối Với Tài Khoản Vốn
- Nhận Định Chung Về Thị Trường Ngoại Hối Thế Giới
- Tác Động Của Quá Trình Hội Nhập Kinh Tế Đến Sự Phát Triển Ttnh Việt Nam
- Đối Mặt Với Những Bất Ổn Do Quá Trình Mở Cửa Thị Trường Tài Chính
Xem toàn bộ 204 trang tài liệu này.
TTNH chỉ có thể phát triển được trong điều kiện TTNH của quốc gia phải
kết nối với TTNH trên thế giới có như vậy những yếu tố tác động mới phản ánh qua sự biến động kịp thời của tỷ giá, tính liên thông của thị trường thể hiện qua các đặc điểm sau:
Thứ nhất, giá cả của các đồng tiền trên TTNH trong nước không xa rời với giá cả trên TTNH trên thế giới. Khi những yếu tố tác động làm thay đổi giá trị của các đồng tiền của những quốc gia có nền kinh tế lớn, ví dụ nếu USD bị giảm giá do khủng hoảng kinh tế tại Mỹ, đồng thời thị trường kỳ vọng về sự phục hồi kinh tế của khu vực Châu Âu dẫn đến EUR tăng giá so với USD, điều này phải được thể hiện qua tỷ giá VND/USD sẽ giảm và tỷ giá VND/ EUR tăng.
Thứ hai, những giao dịch phái sinh trên TTNH quốc gia phải phù hợp những qui định trong giao dịch phái sinh của TTNH thế giới, có như vậy các nhà kinh doanh tiền tệ ở nước ngoài mới có thể tham gia vào thị trường trong nước hay ngược lại các chủ thể kinh doanh tiền tệ trong nước có thể tham gia với các TTNH trong khu vực hay toàn cầu.
1.3.8. Một cơ chế kiểm soát ngoại hối thông thoáng và một chính sách tỷ giá linh hoạt.
Theo Ng Boey Kui [50], điều kiện tiên quyết để cho một TTNH hoạt động hiệu quả đó là những người tham gia trên thị trường được quyền tự do kinh doanh trên tài khoản ngoại tệ của mình mà không có giới hạn nào và chỉ có cơ chế kiểm soát ngoại hối tự do mới tạo điều kiện để thỏa mãn điều này. Mở rộng những người tham gia giao dịch trên thị trường ngoài NHTM còn có các công ty tài chính và công ty phi tài chính để thu hút lượng ngoại tệ và gia tăng doanh số giao dịch.
Quản lý ngoại hối theo các biện pháp hành chánh sẽ làm cản trở hoạt động giao dịch ngoại hối, như bắt buộc các công ty có nguồn thu ngoại tệ phải bán ngoại tệ tại một mức tỷ giá phi thị trường hoặc không được giữ lại trên tài khoản quá một thời gian qui định hoặc hạn mức cho phép.
Chính sách tỷ giá linh hoạt phản ánh minh bạch cung cầu ngoại tệ trên thị trường sẽ giúp cho hoạt động trên thị trường thông suốt, những người tham gia sẽ không phải tìm cách né tránh nhưng qui định về quản lý ngoại hối.
Một TTNH được đánh giá là hoạt động hiệu quả khi nào mà các yếu tố tác động đến hàng hóa được công khai, những thành viên tham gia thị trường dễ dàng tiếp cận các yếu tố này, qua đó dễ dàng lập kế hoạch kinh doanh, đầu tư, bảo hiểm trên cơ sở phán đoán sự biến động của tỷ giá. Thị trường sẽ tránh được những biến động do làn sóng tin đồn gây yếu tố tâm lý làm méo mó cung cầu ngoại tệ trên thị trường.
1.4. Những bài học kinh nghiệm
Việt Nam xây dựng và phát triển TTNH trong bối cảnh trên thế giới đã có những TTNH của các khu vực và thế giới vì thế Việt Nam có thể kế thừa kinh nghiệm của các quốc gia trong khu vực mà có những yếu tố kinh tế nền tảng tương đồng với Việt Nam. Tuy nhiên kinh nghiệm vận hành và phát triển thị trường sẽ tùy thuộc vào những điều kiện cơ sở của mỗi quốc gia vấn đề quan trọng là học hỏi kinh nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá cũng như quản lý ngoại hối để vừa tạo cơ sở phát triển TTNH vừa đảm bảo an toàn hệ thống tài chính trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.
Chọn lựa những quốc gia có cơ chế tỷ giá và độ mở cửa tương đồng với Việt Nam, như Singapore, Philippine, Trung Quốc, HongKong để học hỏi kinh nghiệm về phát triển TTNH. Đối với những quốc gia này, vấn đề quan trọng là vừa quản lý được hoạt động kinh doanh ngoại hối để đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính vừa có thể tạo điều kiện khơi thông các dòng luân chuyển tiền tệ nhằm phát triển TTNH.
Kinh nghiệm Trung Quốc: Ngân hàng nhân dân Trung Quốc(PBOC) cam kết duy trì một tỷ giá ổn định trên thị trường thị trường ngoại hối thông qua việc can thiệp vào Hệ thống giao dịch ngoại hối(CFETS). Chính sách tỷ giá được điều hành phù hợp với những chuyển đổi của nền kinh tế. Ngay từ đầu những năm 80,
Trung Quốc đã cho phép thực hiện cơ chế điều chỉnh tỷ giá giảm dần để phản ảnh đúng sức mua của đồng CNY. Chính sách tỷ giá này đã giúp Trung Quốc cải thiện được cán cân thương mại(CCTM), giảm thâm hụt thương mại và cán cân thanh toán(CCTT), đưa đất nước thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế [60]. Sau đó Trung Quốc đã thực hiện việc cải cách về chính sách tỷ giá vào ngày 21/7/2005, nới lỏng tỷ giá chấp nhận cho CNY tăng giá nhằm giảm áp lực lạm phát.
Về quản lý ngoại hối, Trung Quốc thực hiện biện pháp hạn chế tối đa các giao dịch trong nước sử dụng bằng ngoại tệ, nghiêm cấm người cư trú thanh toán mua bán, chuyển nhượng cho nhau bằng ngoại tệ. Cấm sử dụng ngoại tệ để niêm yết và thanh toán giữa người cư trú với nhau. Đồng thời quan tâm đến điều hành chính sách lãi suất và tỷ giá hợp lý, duy trì lãi suất CNY luôn lớn hơn lãi suất ngoại tệ và tỷ giá giữa CNY/USD được duy trì ổn định nên các doanh nghiệp có xu hướng chuyển đổi ngoại tệ sang nội tệ, góp phần giảm tình trạng đôla hóa.
Xây dựng cơ chế ngoại hối thích hợp nhằm ngăn chặn việc tích trữ ngoại tệ, quản lý nhu cầu mua ngoại tệ, thu hút các nguồn vốn ngoại tệ vào tay nhà nước. Trung Quốc duy trì chính sách kết hối 13 năm mới chấm dứt, khi mà quỹ dự trữ ngoại hối của Trung Quốc đã lên tới hơn 1.500tỷ USD vào năm 2007 [58] chính sách này được xóa bỏ khi nền kinh tế nhiều năm tăng trưởng mạnh, tỷ lệ lạm phát thấp, CCTT, CCTM dư thừa lớn, dự trữ ngoại hối cao. Trung Quốc còn thực thi chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối trong cho vay ngoại tệ đối với các doanh nghiệp trong nước, đến cuối năm 2002 các doanh nghiệp trong nước mới được phép vay ngoại tệ từ các ngân hàng thương mại. Đến năm 2008, Trung Quốc mới tự do hóa giao dịch vãng lai và nới lỏng quản lý với giao dịch vốn.
Nhờ thực hiện từng bước từng bước quá trình tự do hóa quản lý ngoại hối, Trung Quốc đã thành công trong việc điều hành cơ chế tỷ giá, đảm bảo đáp ứng được đầy đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển vững chắc. Tập trung nguồn thu ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho các ngân hàng nâng cao khả năng cạnh tranh với thị trường ngoại tệ chợ đen. Từ năm 1994 đến
nay đã gần 17 năm, sau khi điều chỉnh tỷ giá, Trung Quốc vẫn giữ được thị trường ngoại tệ ổn định.
Về tổ chức thị trường, vào tháng 4/1994 Trung Quốc đã thành lập sàn giao dịch ngoại tệ CFETS đánh dấu sự ra mắt của TTNTLNH thống nhất, phương pháp quản lý ngoại hối của chính phủ cũng đã điều chỉnh dựa trên các biện pháp kinh tế và hợp pháp ngược với cách điều hành theo mệnh lệnh hành chính trước đây. Đến năm 2002, cho phép các công ty có đủ điều kiện giao dịch quốc tế và có nguồn thu ngoại tệ từ tài khoản giao dịch hiện hành được phép mở tài khoản ngoại tệ và duy trì trong giới hạn 20% so với doanh thu ngoại tệ của năm trước. Năm 2005, cho phép các công ty phi tài chính và công ty tài chính phi ngân hàng được tham gia vào TTLNH với cách thức giao dịch đấu giá và hệ thống tạo giá, ngoài ra các giao dịch kỳ hạn và hoán đổi giữa CNY với các ngoại tệ cũng được phép thực hiện.
TTNH của Trung Quốc gồm 2 phần: TTLNH hoặc thị trường bán buôn và thị trường bán lẻ. Trong đó có thành phần tham gia chính gồm: a) CFETS mà chức năng là sàn giao dịch trên TTLNH chịu trách nhiệm thanh toán bù trừ và cung cấp các cơ quan có thẩm quyền giám sát thông tin thị trường.b) PBOC và SAFE như là người có thẩm quyền điều hành: PBOC ủy quyền cho SAFE điều chỉnh giao dịch giao ngay và kỳ hạn trên TTLNH và điều tiết thị trường bán lẻ. c) SAFE được chỉ định cấp phép cho những ngân hàng, tổ chức tài chính phi ngân hàng và những công ty phi tài chính đủ điều kiện được phép tham gia TTNH; d) những công ty hay cá nhân được phép mua và bán ngoại tệ trên thị trường bán lẻ. Hệ thống tạo giá trên TTLNH (market maker) sử dụng sàn giao dịch có tổ chức bằng hệ thống khớp lệnh sàn giao dịch điện tử, trong khi giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng của họ được thực hiện trên thị trường phi tập trung(OTC)[60].
Kinh nghiệm của Singapore, theo xếp loại của IMF, chính sách tỷ giá của Singapore là thả nổi có điều tiết, tuy nhiên theo Singapore chế độ tỷ giá của họ có những đặc điểm rất riêng, là chế độ tỷ giá dựa trên một rổ tiền tệ, có biên độ
dao động rộng và điều chỉnh theo định kỳ. Tỷ trọng của các ngoại tệ trong rổ căn cứ vào mức độ tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế của các đối tác của Singapore, loại tiền tệ và tỷ trọng được điều chỉnh tùy thuộc vào sự thay đổi trong hoạt động thương mại của Singapor, tuy nhiên Cơ quan quản lý tiền tệ của Singapore(MAS) không công bố cụ thể thành phần của rổ tiền tệ cũng như tỷ trọng của các loại tiền.Với mục tiêu theo đuổi chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết MAS sẽ can thiệp nếu như tỷ giá SGD vượt quá biên độ dao động và hướng dao động có thể tăng lên hoặc giảm xuống tùy thuộc vào sự biến động của các chỉ số kinh tế cơ bản, Singapor được xem là quốc gia thành công nhất khi theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết với các đặc điểm riêng với tên gọi là BBC(Basket Band Crawl). Nó được xem là hình mẫu cho các chế độ tỷ giá của Trung Quốc cũng như các quốc gia thuộc Asean.
NHTW Singapore thiết lập ủy ban theo dõi và giám sự phát triển của TTNH gọi là Ủy ban ngoại hối (Forex Exchange Committee) bao gồm MAS và các NHTM [1]
Một trong những chiến lược kiểm soát khu vực kinh tế đối ngoại là kiểm soát chặc chẽ các giao dịch ngoại hối giữa người cư trú và người không cư trú thông qua số liệu thanh toán quốc tế của các NHTM. Việc nộp muộn báo cáo hoặc báo cáo sai sẽ chịu phạt nặng tính từ ngày đến hạn nộp báo cáo hoặc sửa sai báo cáo. Khi biết có nhiều giao dịch không qua hệ thống NHTM, NHTW mở rộng phạm vi kiểm soát ngoại hối bằng cách yêu cầu các công ty ngoại hối trực thuộc các NHTM báo cáo trực tiếp tất cả các giao dịch ngoại hối cho NHTW, ngoài ra NHTW còn điều tra các giao dịch qua biên giới hàng tháng để nắm bắt được tất cả các giao dịch mà hệ thống NHTM không thống kê được.
Kinh nghiệm Thái Lan, Từ năm 1985 Thái Lan đã có những bước đi mạnh mẽ trong quá trình tự do hóa giao dịch vốn nhằm thu hút dòng vốn nước ngoài, dỡ bỏ những điều kiện đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp, tự do hóa dòng vốn gián tiếp và vay nợ nước ngoài chỉ đăng ký với NHNN, hạn chế dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên việc phát triển quá nhanh TTCK với luồng vốn vào ồ ạt
đã gây bất ổn cho thị trường, sau khủng hoảng đã điều chỉnh quản lý chặc chẽ dòng vốn vào đồng thời thay đổi cơ chế tỷ giá trước khủng hoảng tài chính năm 1997, Thái Lan duy trì việc thông báo tỷ giá hối đoái chính thức, tỷ giá hối đoái chính thức cũng được neo với rổ tiền tệ, trong đó USD chiếm đến 90%. Tuy nhiên tỷ giá hối đoái chính thức được hủy bỏ hoàn toàn vào ngày 2/7/1997, sau đó chính sách tỷ giá được thả nổi nhưng chưa hoàn toàn, NHTW sẽ can thiệp khi thị trường có biến động lớn.
Kinh nghiệm của Philippine
NHTW Philippine (BSP) duy trì một chính sách tỷ giá thả nổi, tỷ giá được xác định trên cơ sở cung –cầu trên TTNH. Tuy nhiên BSP sẳn sàng can thiệp khi tỷ giá biến động bất thường. Tỷ giá được xác định theo thị trường là phù hợp với chính sách cải cách theo định hướng thị trường của chính phủ và chiến lược cạnh tranh hướng ngoại với giá cả ổn định và hiệu quả [75].
BSP được giao quyền hợp pháp và toàn diện trong việc qui định và giám sát TTNH, theo đó BSP được phép chỉ định những nhà giao dịch và đại lý ngoại hối được ủy quyền để giao dịch trên TTNH. Các NHTM được phép tự do kinh doanh trên tài khoản ngoại tệ của mình mà không bị bắt buộc phải bán ngoại tệ cho NHTW như trước năm 1985 và NHTW can thiệp vào TTNH thông qua một NHTM của nhà nước. [50]
Ở Philippine giao dịch peso-dolla được thực hiện giữa các ngân hàng là thành viên của Hiệp hội các NH của Philippine (Bankers Association of the Philippines-BAP) và giữa những NH này với NHTW thông qua hệ thống giao dịch Philippine ( Philippine Dealing System-PDS), nếu những NH không phải là thành viên của BAP sẽ giao dịch pesos-dollar thông qua màn hình Reuters Dealing, để giao dịch với đồng tiền thứ ba hầu hết những ngân hàng đều sử dụng Reuters Dealing và dịch vụ tài chính của Bloomberg [75].
NHTW Philippine đã thành lập Trung tâm giao dịch ngoại hối từ năm 1967, đây là một dạng thị trường giao dịch tại một địa điểm cụ thể đã tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho việc phát triển TTNH mới nổi. [50]
Về quản lý ngoại hối Philippine và Indonesia cho phép người cư trú và không cư trú được mở tài khoản tiền gửi bằng ngoại tệ và với khu vực kinh tế đối ngoại việc kiểm soát các giao dịch ngoại hối bằng việc yêu cầu các tổ chức và cá nhân có giao dịch ngoại hối báo cáo kết hợp đăng ký tại NHTW Philipine. Hệ thống quản lý này rất khác biệt so với các nước khác và nước này rất thành công trong việc kiểm soát ngoại hối thông qua việc sử dụng hệ thống đăng ký giao dịch.[8]
Kinh nghiệm của HongKong
TTNH HongKong là một trong những TTNH lớn nhất trên thế giới và được những nhà nghiên cứu đánh giá rằng HongKong có hầu hết những đặc điểm cần thiết của một TTNH thành công đó là: nền chính trị ổn định, không kiểm soát ngoại hối và vốn, môi trường kinh doanh thân thiện và tự do, cơ sở hạ tầng hiện đại, những chuyên gia tài chính được đào tạo tốt và là một thị trường có vai trò như một trung tâm tài chính thế giới [58].
Kinh nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế:
Indonesia cơ chế xác định tỷ giá trên cơ sở “rổ” tiền tệ, tỷ giá hối đoái chính thức có biên độ dao động, sau khi có khủng hoảng tài chính ở Thái Lan thì bỏ biên độ nhưng cho phép tỷ giá dịch chuyển thông qua việc can thiệp vào thị trường ngoại hối. [50]
Malaysia trước cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á, về nguyên tắc, tỷ giá hối đoái được xác định bởi thị trường, nhưng NHTW Malaysia vẫn can thiệp nhằm ổn định tỷ giá. Sau khủng hoảng, NHTW Malaysia nâng tỷ giá MYR lên 10% và gắn kết với USD, kết hợp nghiệp vụ thị trường mở để hấp thụ ngoại tệ khi can thiệp vào thị trường ngoại hối chứ không hoàn toàn sử dụng chính sách tiền tệ để ổn định tỷ giá đồng thời áp dụng các biện pháp kiểm soát vốn toàn diện. [50]
Tóm lại với những kinh nghiệm của các quốc gia về phát triển TTNH, Việt Nam có thể xem xét đó là: Thứ nhất, về chính sách tỷ giá để phát triển TTNH và giảm những cú sốc do khủng hoảng kinh tế trong điều kiện hội nhập, là thực hiện