Quan Niệm Thị Trường Công Nghệ Cao ; Đặc Điểm Và Vai Trò Của Thị Trường Công Nghệ Cao


mua bán, trao đổi các sản phẩm công nghệ và dịch vụ KHCN trên cơ sở lợi ích của các bên tham gia.

Trên cơ sở kế thừa, phát triển các quan niệm về thị trường đã chỉ ra trên đây, tác giả cho rằng: Thị trường công nghệ là bộ phận cấu thành thị trường khoa học và công nghệ, mà ở đó quan hệ cung và cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ được thực hiện thông qua hoạt động trao đổi, mua, bán giữa người sở hữu sản phẩm, dịch vụ công nghệ với người có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ công nghệ bằng hợp đồng kinh tế hay thỏa thuận khác theo quy định của pháp luật hiện hành.

2.1.2.2. Quan niệm thị trường công nghệ cao; đặc điểm và vai trò của thị trường công nghệ cao

* Quan niệm thị trường công nghệ cao

CNC là sản phẩm của các cuộc cách mạng công nghiệp trong lịch sử phát triển xã hội, tuy nhiên việc hiểu và phân tích còn lẫn lộn giữa khoa học với công nghệ. Chỉ khi cách mạng 4.0 phát triển đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội từ sản xuất đến tiêu dùng, thì CNC mới được nhận thức đúng, đầy đủ, đúng nghĩa. Vì lý do như vậy mà đến nay, không chỉ ở Việt Nam, mà trên thế giới chưa có một quan niệm thống nhất về TTCNC, phổ biến chỉ đề cập đến thị trường KHCN. Phần lớn các tài liệu nghiên cứu về thị trường được công bố gần đây ở Việt Nam cũng như các nước có nền KTTT phát triển cao, thì thuật ngữ TTCNC cũng chưa được đề cập cả trong lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, ở các nền KTTT có trình độ KHCN phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và một số nước Châu Âu khác, nội hàm của TTCNC được đề cập chủ yếu liên quan đến các hoạt động R&D CNC.

Ở Việt Nam, mặc dù thuật ngữ TTCNC đã đưa vào Luật Công nghệ cao số 21/2008/QH12 năm 2018; theo đó, “Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia phát triển thị trường công nghệ cao”[87, tr.12], nhưng trong các văn bản quy phạm pháp luật về KHCN, về CNC và CGCN cũng như trong các công trình khoa học công bố gần đây lại chưa có quan niệm thống


nhất về TTCNC... Trong các văn bản quy phạm pháp luật và các công trình khoa học chủ yếu tiếp cận quan niệm về thị trường KHCN. Điển hình như: “Thị trường KHCN là nơi diễn ra các hoạt động mua bán, chuyển giao quyền sở hữu có trả tiền những sản phẩm KHCN đã được vật chất hoá dưới dạng bí quyết, bản vẽ, mô hình của những sản phẩm hay phương pháp, quy trình sản xuất và quản lý, patent, licence... và những dịch vụ có liên quan tới việc mua - bán, chuyển giao ấy”[55, tr.105]; “Thị trường KHCN là một thuật ngữ dùng để chỉ một loại thị trường mà trong đó diễn ra sự mua bán, trao đổi hàng hoá là sản phẩm, dịch vụ của hoạt động KHCN”[57, tr.9]; “Thị trường KHCN là thị trường mà ở đó hàng hoá là các phát minh khoa học, công nghệ; các dịch vụ KHCN gồm cả hữu hình và vô hình, vật chất và phi vật chất trong một môi trường thể chế xác định”[32, tr.27]. Các quan niệm này đã từ lâu gây hiểu lầm rằng, thị trường KHCN, TTCN hay TTCNC là đồng nhất.

Trên cơ sở kế thừa, phát triển và hoàn thiện một số quan niệm về thị trường, thị trường KHCN mà tác giả đã tiếp cận nghiên cứu; đồng thời căn cứ vào đặc thù của CNC tác giả cho rằng: Thị trường công nghệ cao là thị trường công nghệ đặc thù, mà ở đó quan hệ cung và cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao được thực hiện thông qua hoạt động trao đổi, mua, bán giữa người sở hữu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao với người có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao bằng hợp đồng kinh tế hay các thỏa thuận khác theo quy định của pháp luật hiện hành.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Nội hàm của quan niệm TTCNC chỉ rò các nội dung sau:

Chủ thể tham gia TTCNC gồm chủ thể nguồn cung, chủ thể nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC và các tổ chức trung gian khác. Chủ thể tham gia TTCNC rất đa dạng, phong phú, bao gồm: Nhà nước, doanh nghiệp trong và ngoài nước hoặc bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào đều có quyền tham gia TTCNC trên cơ sở quy định của pháp luật và nhu cầu cung cấp, trao đổi, môi giới hoặc sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC.

Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam - 6


Đối tượng tham gia TTCNC: Là sản phẩm hay dịch vụ CNC do CNC tạo ra ở dạng hữu hình, vô hình, vật chất hay phi vật chất, có chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường.

Hoạt động của TTCNC: Theo quy luật của KTTT. TTCNC cũng như các loại thị trường khác phải tuân thủ nguyên tắc, quy luật KTTT như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh...

* Đặc điểm của thị trường công nghệ cao

Một là, thị trường công nghệ cao là thị trường độc quyền đối với sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao

Sản phẩm, dịch vụ CNC trên TTCNC là hàng hóa đặc biệt bởi vì sản phẩm, dịch vụ CNC khi mua về nếu không có sự tác động bằng kỹ năng của con người thì rất khó hoặc không thể sử dụng được; có chi phí cao; sản xuất mang tính cá biệt hoặc với số lượng hạn chế; có tính rủi ro cao do sản phẩm, dịch vụ CNC có chi phí đầu tư đầu vào cao nên việc thu hồi chi phí ẩn chứa nhiều rủi ro hơn và quá trình nghiên cứu không đảm bảo tốt sự bảo mật thì thông tin, ý tưởng nghiên cứu bị rò rỉ ra bên ngoài sẽ mất đi tính mới, tính cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ CNC.

Sản phẩm, dịch vụ CNC có tính độc quyền cao. Theo đó, bên mua có được hợp đồng độc quyền sản phẩm, dịch vụ CNC thì bên mua có quyền sở hữu và quyền sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC; có quyền chuyển nhượng cho bên thứ ba với tư cách là bên bán sản phẩm, dịch vụ CNC nếu hợp đồng cho phép. Tuy nhiên, trong hợp đồng trách nhiệm của bên mua không được phép chuyển nhượng sản phẩm, dịch vụ CNC cho bên thứ ba.

Hai là, người sử dụng sản phẩm, dịch vụ CNC phụ thuộc nhiều vào người cung cấp sản phẩm, dịch vụ CNC

Mối quan hệ cung - cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao trên thị trường thường xảy ra trường hợp thông tin không cân xứng. Theo đó, người bán sản phẩm, dịch vụ CNC am hiểu tường tận về thông tin liên quan đến sản phẩm, dịch vụ CNC hơn người mua. Họ làm chủ quy trình hoạt động, vận hành


sản phẩm, dịch vụ CNC; bởi họ nắm rò bí quyết, tính năng ứng dụng của sản phẩm, dịch vụ CNC đó; Ngược lại, người mua sản phẩm, dịch vụ CNC biết rất ít về chất lượng và giá cả của sản phẩm, dịch vụ CNC, đồng thời hàng hóa này thường là các sản phẩm, dịch vụ mới, chưa được thị trường kiểm nghiệm… Do đó người mua sản phẩm, dịch vụ CNC phải được người bán người mua sản phẩm, dịch vụ CNC hướng dẫn, phải nghiên cứu, đọc tài liệu kèm theo và đặc biệt họ phải học cách sử dụng, vận hành sản phẩm, dịch vụ CNC đó.

Ba là, chi phí giao dịch sản phẩm, dịch vụ CNC cao và cần có các tổ chức dịch vụ khoa học công nghệ

Do tính đặc biệt của sản phẩm, dịch vụ CNC nên giá trị thực của chúng khó xác định một cách chính xác, là một loại hàng hóa có độ rủi ro cao nên cần có chi phí trung gian trong việc thẩm định, đánh giá; việc thương thảo, đàm phán về hợp đồng mua bán sản phẩm, dịch vụ CNC rất phức tạp, chứa đựng nhiều điều khoản và phải xác định rò ràng quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia nên làm phát sinh chi phí giao dịch cao. Do vậy, để sản phẩm, dịch vụ CNC dễ dàng được tiếp cận và trao đổi giữa người mua và người bán trên TTCNC thì cũng như các thị trường khác cần thiết phải thiêt lập hệ thống các tổ chức dịch vụ trung gian môi giới cho loại hàng hóa đặc biệt này thông qua quá trình tư vấn, định giá, thẩm định. Tuy nhiên, những vấn đề này đòi hỏi phải có nguồn nhân lực có trình độ cao; do vậy, việc hình thành tổ chức dịch vụ KHCN có chất lượng tốt cần phải coi trọng đội ngũ cán bộ KHCN.

* Vai trò của thị trường công nghệ cao

Thực tế cho thấy, TTCN nói chung, TTCNC nói riêng, mặc dù được hình thành và phát triển muộn hơn so với các loại thị trường khác trong nền KTTT như thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản…Tuy nhiên, sau khi TTCNC ra đời đã khẳng định vai trò quan trọng của nó trong phát triển KT - XH biểu hiện cụ thể như sau:

Một là, sự ra đời TTCNC đã thúc đẩy nâng cao năng suất, chất lượng và số lượng sản phẩm, dịch vụ CNC, nâng cao tính cạnh tranh của hàng hóa này trên thị trường trong nước và quốc tế, góp phần rút ngắn khoảng cách


trình độ phát triển giữa các nền kinh tế, tạo điều kiện cho các nền kinh tế có trình độ công nghệ chậm phát triển có khả tiếp nhận CGCN từ các nền kinh tế có trình độ KHCN phát triển.

Hai là, TTCNC đã tạo nền tảng cho các hoạt động KHCN phát triển sôi động, phong phú và đa dạng hơn từ các hoạt động nghiên cứu, triển khai cho đến CGCN từ các thành phần kinh tế cả trong và ngoài nước, góp phần nâng cao tiềm lực KHCN cho các quốc gia.

Ba là, TTCNC phát triển đã tạo điều kiện cho việc hình thành và phát triển nguồn nhân lực KHCN, lực lượng lao động được đào tạo ở mọi trình độ ngày càng đông đảo, góp phần nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất.

Bốn là, cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ, nhất là những thành tựu bước đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư như đang là xu hướng trên toàn thế giới trong việc tự động hóa và trao đổi dữ liệu trong công nghệ sản xuất, hội tụ kỹ thuật số với các yếu tố cốt lòi như: trí tuệ nhân tạo (AI), kết nối vạn vật - Internet of Things (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), Blockchain... đã là những công cụ và nền tảng rất tốt cho sự phát triển của thị trường công nghệ cao trong giai đoạn mới. Điển hình đó là sự phát triển của thị trường công nghệ kỹ thuật số, thị trường online… thông qua các hình thức marketting kỹ thuật số đang là xu hướng chính trong thời đại kinh doanh công nghệ hiện nay. Thị trường công nghệ kỹ thuật số tác động và có ảnh hưởng đến hầu hết các hoạt động trong xã hội như tài chính, ngân hàng, lao động, bất động sản, y tế, giáo dục, truyền thông… và từng bước khẳng định tính ưu việt, nổi trội của nó đang mang lại trong các hoạt động của đời sống của xã hội loài người.

2.2. Quan niệm, nội dung và yếu tố ảnh hưởng đến phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

2.2.1. Quan niệm, yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

2.2.1.1. Quan niệm thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

Trên cơ sở kế thừa, phát triển và hoàn thiện một số quan niệm về thị trường, thị trường KHCN và TTCNC; đặc biệt xuất phát từ những nội dung mang tính đặc thù của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là đặc


thù của các loại hình thị trường hiện nay, tác giả cho rằng: Thị trường công nghệ cao ở Việt Nam là loại hình thị trường công nghệ đặc thù, mà ở đó diễn ra hoạt động trao đổi, mua, bán sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao thông qua hợp đồng kinh tế hay các thỏa thuận khác theo quy định của pháp luật.

2.2.1.2. Yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

Từ những phân tích, luận giải trên cho thấy, về bản chất, thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu về một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định, trong đó người mua và người bán đều cạnh tranh bình đẳng. Xuất phát từ đặc điểm của nền KTTT nói chung, nhất là đặc thù của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, có thể khái quát các yếu tố cấu thành TTCNC bao gồm:

Một là, nguồn cung sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao;

Hai là, nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao;

Ba là, các tổ chức trung gian kết nối cung và cầu sản phẩm, dịch vụ công nghệ cao.

Trong các yếu tố cấu thành TTCNC nêu trên, thì quy mô nguồn cung và quy mô nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là các yếu tố phản ánh quy mô TTCNC lớn hay nhỏ. Việc xác định nên mua hay bán một loại sản phẩm, dịch vụ CNC với khối lượng và giá cả bao nhiêu do cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC quyết định. Điều đó cho thấy, TTCNC là nơi thực hiện sự kết hợp chặt chẽ gữa hai khâu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ CNC. Như vậy TTCNC đòi hỏi phải có: Đối tượng trao đổi, mua, bán là sản phẩm, dịch vụ CNC; Đối tượng tham gia trao đổi, mua, bán là người bán, người mua và các tổ chức trung gian kết nối cung - cầu; điều kiện thực hiện là nhu cầu của nguồn cung và nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC.

2.2.2. Quan niệm, nội dung phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

2.2.2.1. Quan niệm phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam

Theo quan điểm của các kinh tế học của Trung Quốc, nội dung trọng tâm của phát triển TTCNC là tăng cường thương mại hoá các kết quả nghiên cứu và gia tăng tính định hướng thị trường của hoạt động nghiên cứu thông qua các biện pháp như hoàn thiện môi trường pháp lý, phát triển hệ thống


trung gian môi giới... Cách tiếp cận này phù hợp với các nước có năng lực KHCN tương đối phát triển, trong đó có nhiều ngành khoa học trình độ cao.

Trong bối cảnh HNKTQT ngày càng mở rộng và phát triển như ngày nay, đối với các nước có năng lực KHCN chưa cao trong nền kinh tế chưa phát triển như Việt Nam thì nội dung phát triển TTCNC không chỉ gia tăng số lượng và thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ CNC, gia tăng các giao dịch và chủ thể tham gia TTCNC, mà còn phải nâng cao chất lượng phát triển thị trường, gia tăng dung lượng thị trường, tính hợp lý của cơ cấu TTCNC.

Trên cơ sở quan niệm TTCNC; TTCNC ở Việt Nam và các yếu tố cấu thành TTCNC, tác giả cho rằng: Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam là quá trình biến đổi các yếu tố cấu thành thị trường công nghệ cao thông qua sử dụng các cơ chế, chính sách phù hợp để tác động vào quan hệ kinh tế giữa các lực lượng tham gia thị trường công nghệ cao theo hướng từng bước gia tăng giá trị của các yếu tố này về số lượng, chất lượng và cơ cấu nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tác động của cách mạng 4.0.

Nội hàm của quan niệm này chỉ rò các nội dung:

Thứ nhất, chủ thể tham gia phát triển TTCNC gồm chủ thể cung và cầu sản phẩm, dịch vụ CNC, các tổ chức trung gian kết nối cung cầu. Trong đó:

Chủ thể cung sản phẩm, dịch vụ CNC là các chủ thể cung trong và ngoài nước, bao gồm: Tổ chức KHCN, doanh nghiệp KHCN, các nhà sáng chế độc lập, cơ sở giáo dục đại học, các cơ quan nghiên cứu KHCN của các bộ, ngành, địa phương. Chủ thể cung nước ngoài chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoặc mua bán, trao đổi thông qua các hợp đồng kinh tế theo luật định.

Chủ thể cầu sản phẩm, dịch vụ CNC là doanh nghiệp, nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác.

Nhà nước là một chủ thể có nhu cầu cao về sản phẩm, dịch vụ CNC, đặc biệt là các sản phẩm liên quan đến việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực.


Doanh nghiệp có nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC liên quan đến nhu cầu nâng cao, đổi mới năng lực công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và năng suất lao động trong sản xuất và kinh doanh. Để đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, doanh nghiệp có thể tự lực phát triển công nghệ hoặc liên kết với chủ thể khác nhằm tăng cường năng lực công nghệ.

Các tổ chức, cá nhân khác có nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC phục vụ cho các hoạt động phát triển của mình

Các tổ chức trung gian thực hiện các dịch vụ sản phẩm, dịch vụ CNC bao gồm: dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, dịch vụ thông tin, dịch vụ tài chính, dịch vụ pháp lý, dịch vụ giám định công nghệ và nhiều loại hình dịch vụ khác nhằm xúc tiến và thúc đẩy các giao dịch CNC trên thị trường.

Thứ hai, nội dung phát triển TTCNC ở Việt Nam là quá trình mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hoàn thiện cơ cấu các yếu tố cấu thành TTCNC như: gia tăng số lượng, nâng cao chất lượng nguồn cung sản phẩm, dịch vụ CNC; gia tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC; gia tăng số lượng và chất lượng các tổ chức trung gian kết nối cung - cầu theo hướng phù hợp với điều kiện nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Thứ ba, phương thức phát triển TTCNC là sự kết hợp giữa hoạt động của thị trường với kế hoạch của Nhà nước được thực hiện gián tiếp thông qua: Công cụ, chính sách kinh tế như đầu tư vốn ngân sách nhà nước, vốn đầu tư nước ngoài nhằm hỗ trợ phát triển thị trường; Hệ thống giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho phát triển TTCNC; Cơ chế chính sách hỗ trợ, bảo đảm tính pháp lý cho các chủ thể tham gia TTCNC, nhất là bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, quyền bảo đảm thông tin chính xác về sản phẩm, dịch vụ CNC.

Thứ tư, mục đích phát triển TTCNC nhằm tạo sự thay đổi theo hướng mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ CNC, góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, đổi mới công nghệ và hoạt động ứng dụng, chuyển giao CNC, hiện đại hóa các ngành sản xuất, dịch vụ có sức cạnh tranh và hiệu quả KT-XH đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ CNC của xã hội.

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 07/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí