Kinh Nghiệm Phát Triển Thị Trường Công Nghệ Cao Của Một Số Quốc Gia Và Bài Học Với Việt Nam


và nâng cao hiệu quả kinh doanh, gia tăng lợi nhuận, trên cơ sở đó làm gia tăng nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC. Muốn như vậy, đòi hỏi các chủ thể kinh tế, nhất là doanh nghiệp phải liên tục đổi mới, cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ thông qua đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại, đặc biệt là các dây chuyền công nghệ phù hợp với điều kiện thực tiễn TTCNC.

Thứ năm, các quy luật kinh tế thị trường

Với định hướng xã hội chủ nghĩa của nền KTTT, song sự phát triển của TTCNC ở Việt Nam, vẫn chịu sự tác động bởi quy luật KTTT như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị, quy luật cung cầu,... Các quy luật KTTT là nhân tố quan trọng, có tác động thuận và nghịch đối với sự phát triển của TTCNC. Theo đó, các quy luật này chi phối hoạt động của các chủ thể tham gia TTCNC, nhất là doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp muốn tồn tại, phát triển bền vững đòi hỏi phải thường xuyên cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, tích cực đổi mới dây chuyền công nghệ theo hướng hiện đại. Điều đó có nghĩa, đã làm gia tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC, trên cơ sở đó gián tiếp thúc đẩy TTCNC phát triển. Đó là tác động thuận chiều của các quy luật KTTT. Ngược lại, khi các tổ chức kinh tế, kể cả doanh nghiệp không tự đổi mới sáng tạo, không cải tiến công nghệ sản xuất, kinh doanh hay công nghệ quản lý, chẳng những tự làm mất đi sức cạnh tranh của mình, mà còn cản trở TTCNC phát triển.

Thứ sáu, tác động của cách mạng 4.0

Thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp, hiện nay đang bước vào cách mạng 4.0. Trong đó, cách mạng 4.0 với việc sử dụng các thiết bị điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Cuộc cách mạng công nghiệp này là sự thay thế phần lớn và hầu hết chức năng của con người (cả lao động chân tay và trí óc) bằng các thiết bị máy móc tự động hóa hoàn toàn trong quá trình sản xuất nhất định giúp cho các nước trên thế giới phát triển các ngành công nghệ thông tin, công nghệ nano, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng mới, công nghệ vũ trụ... có tính thân thiện với môi trường. Cuộc cách mạng này sẽ làm thay đổi lực lượng sản


xuất của xã hội hiện đại, thực hiện vai trò dẫn đường trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

2.2.3.2. Yếu tố chủ quan

Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tế - xã hội và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Trình độ phát triển kinh tế - xã hội và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia là yếu tố tác động hai chiều, cả tích cực và tiêu cực đối với phát triển TTCNC.

Trình độ phát triển KT-XH là nhân tố góp phần gia tăng nguồn cung và nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC cho TTCNC thông qua tăng đầu tư phát triển KHCN quốc gia như đầu tư NSNN cho phát triển KHCN, thu hút nguồn vốn từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đầu tư nghiên cứu, triển khai thành tựu KHCN vào sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra, trình độ phát triển của KT-XH còn gia tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC do nhu cầu đổi mới công nghệ của các tổ chức, cá nhân tăng, theo đó sẽ thúc đẩy TTCNC phát triển; ngược lại, khi trình độ KT-XH thấp thì cả nguồn cung và nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC giảm, kết quả là TTCNC không thể phát triển.

Phát triển thị trường công nghệ cao ở Việt Nam - 8

Mô hình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia sẽ quyết định trình độ đổi mới công nghệ của quốc gia đó, theo đó sẽ tác động tới sự phát triển của TTCNC. Nếu quốc gia theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào nguồn lực tài nguyên thiên nhiên và sử dụng lao động phổ thông sẽ không tạo được nhu cầu cao về sản phẩm, dịch vụ CNC và đổi mới sáng tạo. Ngược lại những quốc gia theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, dựa vào KHCN và đổi mới sáng tạo sẽ đầu tư lớn, có hiệu quả để thúc đẩy quan hệ cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC, theo đó sẽ thúc đẩy TTCNC phát triển mạnh mẽ và ngược lại.

Thứ hai, năng lực khoa học công nghệ quốc gia, trình độ năng lực của các tổ chức khoa học công nghệ

Năng lực KHCN quốc gia là nhân tố quyết định nguồn cung và cầu sản phẩm, dịch vụ CNC. Các quốc gia có TTCNC phát triển là các quốc gia có


năng lực KHCN phát triển. Các công nghệ mới, CNC, công nghệ tiên tiến đều được sản xuất ở các quốc gia có năng lực KHCN phát triển, vì các quốc gia này có đủ điều kiện về nhân lực, cơ sở hạ tầng, nguồn vốn và các thông tin cần thiết để nghiên cứu và triển khai công nghệ. Trong đó, trình độ và năng lực của các tổ chức KHCN đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ CNC cũng như thực hiện việc thương mại hóa sản phẩm, dịch vụ CNC. Ngược lại, ở các quốc gia có năng lực KHCN kém sẽ khó khăn trong quá trình triển khai hoạt động nghiên cứu và triển khai công nghệ; theo đó nguồn cung và cầu sản phẩm, dịch vụ CNC sẽ không nhiều, và do đó TTCNC cũng khó phát triển.

Thứ ba, hệ thống cơ chế chính sách, pháp lý về quản lý khoa học công nghệ

Để TTCNC vận hành hiệu quả, hoạt động cung ứng sản phẩm, dịch vụ CNC đáp ứng nhu cầu của các chủ thể tham gia TTCNC đòi hỏi Nhà nước phải có hệ thống cơ chế chính sách, pháp về KHCN đồng bộ, phù hợp, kịp thời nhằm điều tiết hoạt động cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp đối với các chủ thể tham gia TTCN nói chung, TTCNC nói riêng. Trong đó, quyền SHTT là một trong những thể chế hỗ trợ quan trọng nhất cho sự vận hành của thị trường, bởi quyền SHTT đảm bảo để các sản phẩm KHCN có thể trở thành hàng hóa. Vì vậy, nếu hệ thống cơ chế chính sách, pháp quản lý KHCN đồng bộ, phù hợp, kịp thời sẽ là nhân tố góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của TTCNC; Ngược lại, khi hệ thống cơ chế chính sách, pháp quản lý KHCN không đồng bộ, hay không phù hợp, thiếu tính kịp thời sẽ là nhân tố cản trở, kìm hãm sự phát triển của TTCNC.

Như vậy, để phát triển TTCNC ở Việt Nam hiện nay cần thiết phải quan tâm và chú trọng đến các yếu tố tác động đến sự phát triển của thị trường này. Các yếu tố cho dù là khách quan hay chủ quan, tác động trực tiếp hay gián tiếp, tích cực hay tiêu cực, đều ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của TTCNC. Mỗi yếu tố có vị trí, vai trò riêng nhưng có mối liên hệ tác động qua lại chặt chẽ với nhau, góp phần thúc đẩy TTCNC phát triển.


2.3. Kinh nghiệm phát triển thị trường công nghệ cao của một số quốc gia và bài học với Việt Nam

2.3.1. Kinh nghiệm phát triển thị trường công nghệ và phát triển thị trường công nghệ cao của một số quốc gia

Để tiến hành CNH, HĐH đất nước, bắt kịp cách mạng 4.0, vấn đề phát triển thị trường KHCN nói chung, phát triển TTCNC nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết không chỉ đối với Việt Nam, mà còn với nhiều nền kinh tế trên thế giới. Nắm bắt xu thế này, nhiều quốc gia đã triển khai thành công việc phát triển thị trường KHCN, nhất là TTCNC. Tuy nhiên, tùy theo trình độ phát triển mà mỗi nền kinh tế triển khai phát triển TTCNC theo những cách thức và phương pháp khác nhau. Sau đây là kinh nghiệm phát triển TTCN và TTCNC của Trung Quốc, Cộng hòa Liên bang Đức, Israen.

2.3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Phát triển TTCNC trong bối cảnh cách mạng 4.0 là một nội dung rất quan trọng mà chính phủ Trung Quốc đã quan tâm từ rất sớm và coi đây là yếu tố cần thiết để tiến hành thành công sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước. Phát triển TTCNC được đánh giá là một sáng tạo mang tính đột phá của chính phủ Trung Quốc trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Quá trình phát triển TTCN nói chung, TTCNC nói riêng của Trung Quốc đã được triển khai từ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ 20 và được chia thành 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 (còn gọi là giai đoạn thai nghén); Giai đoạn 2 (Giai đoạn khởi động); Giai đoạn 3 (Giai đoạn phát triển) [80]. Thực tiễn quá trình phát triển TTCN nói chung, TTCNC nói riêng, ở Trung Quốc được đánh giá có nhiều nội dung sáng tạo, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Từ thực tế phát triển TTCNC của Trung Quốc, nhất là giai đoạn 3 (giai đoạn phát triển) có thể rút ra mấy kinh nghiệm sau đây:

Thứ nhất, đổi mới cơ chế quản lý đối với các tổ chức R&D, theo hướng ưu tiên đầu tư R&D CNC. Trong giai đoạn 3, nhất là từ năm 1996, là giai đoạn Trung Quốc tập trung đổi mới cơ chế quản lý đối với các tổ chức R&D,


trong đó đã tiến hành chuyển đổi các cơ quan nghiên cứu ứng dụng thành doanh nghiệp KHCN. Các tổ chức nghiên cứu cơ bản hoặc đơn vị cung cấp dịch vụ công cộng phi lợi nhuận được nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động và là đơn vị sự nghiệp hoặc đơn vị nghiên cứu phi lợi nhuận.

Quá trình chuyển cơ chế quản lý đối với các cơ quan R&D của Trung Quốc đã tác động tích cực trong việc gắn kết quá trình nghiên cứu với quá trình sản xuất, qua đó huy động được nhiều nguồn lực từ sản xuất để phát triển KHCN, trên cơ sở đó phát triển thị trường KHCN. Điều đó cho thấy, việc phát triển thị trường KHCN là kết quả trực tiếp của quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý đối với các cơ quan R&D của Trung Quốc, nhờ đó góp phần tạo nguồn cung sản phẩm hàng hoá, dịch vụ CNC cho TTCNC. Thực hiện cơ chế mới, hầu hết các cơ quan R&D đã xây dựng bộ phận nghiên cứu thị trường KHCN nói chung, TTCNC nói riêng, các nhà khoa học đã phối hợp với các doanh nghiệp để tìm hiểu nhu cầu đổi mới công nghệ, nhất là CNC và xúc tiến hợp đồng. Các cơ quan R&D đã có các đơn vị phát triển công nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu công nghệ, trong đó chủ yếu là CNC.

Thứ hai, phát triển các tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ, nhất là CNC. Để phát triển TTCN, trong đó có TTCNC, Trung Quốc đặc biệt chú trọng phát triển hệ thống tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ, nhất là CNC nhằm tạo quan hệ, kết nối cung - cầu sản phẩm, dịch vụ CNC. Hệ thống tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ bao gồm: Đơn vị sự nghiệp; các đơn vị thuộc các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội; và các tổ chức tư nhân. Trong đó, các tổ chức nghề nghiệp, các hiệp hội; và các tổ chức tư nhân hoạt động theo phương thức tự hạch toán, được Nhà nước tạo điều kiện hoạt động, ưu đãi về thuế; Các đơn vị sự nghiệp bao gồm các trung tâm thông tin, tư vấn, đào tạo, môi giới CGCN, các sàn giao dịch công nghệ, trung tâm phát triển sản xuất,... hoạt động theo phương thức sự nghiệp có thu, hạch toán một phần, được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên và hoạt động Nhà nước yêu cầu hoặc đặt hàng theo kế hoạch hàng năm. Phần thu từ


các dịch vụ được chi cho đầu tư phát triển, chi trả lương,... Có thể nói, các đơn vị sự nghiệp được Nhà nước đầu tư lớn về cơ sở hạ tầng. Cho đến nay, ở Trung Quốc có khoảng 60.000 trung tâm thông tin, tư vấn, môi giới CGCN với khoảng trên 1,2 triệu cán bộ KHCN, thực hiện nhiệm vụ gắn kết giữa các tổ chức KHCN với các tổ chức có nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ CNC, nhất là các doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ ở các tổ chức trung gian kết nối cung cầu công nghệ được nhà nước đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên môn.

Thứ ba, ban hành chính sách hỗ trợ phát triển KHCN, trên cơ sở đó phát triển TTCNC. Để hiện thực hóa chính sách hỗ trợ phát triển KHCN và phát triển TTCNC, Trung Quốc đã tiến hành thành lập một số Quỹ như: Quỹ phát triển công nghệ, Quỹ đầu tư mạo hiểm, Quỹ phát triển sáng chế. Trong đó: Quỹ phát triển công nghệ có 2 nguồn vốn gồm nguồn vốn từ Bộ Tài chính và nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong giai đoạn sản xuất thử nghiệm; Quỹ đầu tư mạo hiểm (chủ yếu ở các nhà đầu tư nước ngoài) đầu tư cho các dự án công nghệ có triển vọng; Quỹ phát triển sáng chế để đầu tư nghiên cứu, hoàn thiện sáng chế về công nghệ, trong đó ưu tiên đối với CNC. Ngoài ra, Trung Quốc có những chính sách khuyến khích doanh nghiệp R&D và đổi mới công nghệ; nếu doanh nghiệp dành một phần lợi nhuận để mua công nghệ sẽ được miễn thuế thu nhập cho phần kinh phí đó.

Thứ tư, sử dụng công cụ tài chính làm động lực thúc đẩy sự phát triển của các cơ quan R&D, thông qua đó phát triển TTCNC. Trung Quốc đặt mục tiêu đến năm 2020 đầu tư 2.5% GDP cho phát triển KHCN. Trong đó, chi đầu tư R&D tập trung chủ yếu vào một số lĩnh vực trọng điểm như công nghệ thông tin, truyền thông, công nghệ môi trường, công nghệ nano, vật liệu mới, hàng không, quốc phòng, an ninh… Hằng năm Trung quốc tăng tỷ trọng vốn đầu tư R&D. Giai đoạn 2012-2016, tỷ lệ chi đầu tư R&D tăng từ 1,91% lên 2,11%; Năm 2016 Trung quốc đầu tư R&D là 1.567,67 tỷ NDT, tăng 52,2% so với năm 2012; Năm 2017 chi đầu tư R&D là 1.750 tỷ NDT, tăng 11,6% so


với năm 2016 [102]. Nhờ sử dụng hiệu quả công cụ tài chính mà số lượng đơn xin phép cấp bằng sáng chế năm 2016 tăng 69%, trong đó số bằng sáng chế được cấp năm 2016 tăng 39,7% kể từ năm 2012 [101]. Mặt khác, để nâng cao năng lực công nghệ quốc gia, Trung Quốc thực hiện chủ trương chuyển từ nhập khẩu máy móc, thiết bị là chủ yếu sang nhập quy trình, bí quyết công nghệ. Thực chất của chủ trương này là tăng nguồn cầu sản phẩm, dịch vụ CNC trong nước để phát triển TTCNC. Kết quả thực hiện chủ trương này là TTCNC ở Trung Quốc luôn giữ được tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm. Cụ thể: Năm 2011 đạt 476,4 tỷ NDT, năm 2012 đạt 643,7 tỷ NDT, năm 2013

đạt 746,9 tỷ NDT [43].

Thứ năm, đẩy mạnh phát triển sàn giao dịch công nghệ là vấn đề cốt lòi để phát triển TTCNC. Sàn giao dịch công nghệ ở Trung Quốc giữ vai trò cốt lòi trong tư vấn, môi giới, xúc tiến chuyển giao, thương mại hóa công nghệ, đánh giá khoa học và định giá công nghệ. Đây là các yếu tố có vai trò quan trọng trong việc phát triển TTCNC. Đối với các sàn giao dịch công nghệ, mặc dù Bộ KHCN Trung Quốc là đơn vị ra quyết định thành lập và xây dựng mô hình hoạt động, nhưng các sàn giao dịch công nghệ này không được nhà nước cấp kinh phí hoạt động mà phải tự hạch toán thu chi trên cơ sở nhiệm vụ được giao theo chức năng, nhiệm vụ của sàn giao dịch công nghệ.

Đến năm 2018, Trung Quốc đã có 1 sàn giao dịch nhà nước và 29 sàn giao dịch cấp tỉnh hoạt động độc lập, cạnh tranh với nhau. Mỗi sàn giao dịch công nghệ được hình thành, phát triển theo nhu cầu của TTCN của mỗi địa phương đó. Mỗi sàn hoạt động trong một lĩnh vực riêng, phù hợp với nhu cầu của thị trường từng khu vực. Ngoài ra, các sàn giao dịch công nghệ nhỏ ở cấp huyện, thị trấn cũng được xây dựng phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp như cung cấp nước sạch, cải tạo đất, điện thông minh, thiết bị xe máy.

Đối tượng khách hàng của các sàn giao dịch công nghệ gồm doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu, cá nhân có năng lực đến từ các cơ sở giáo dục đại học, khu công nghiệp, Sở KHCN các tỉnh, các tổ chức khác có nhu cầu mua,


bán công nghệ hoặc chuyển giao kết quả nghiên cứu… Kinh phí hoạt động của các sàn giao dịch công nghệ từ các đối tượng khách hàng này. Nhờ đẩy mạnh phát triển sàn giao dịch công nghệ mà số lượng sản phẩm, dịch vụ công nghệ nói chung, sản phẩm, dịch vụ CNC nói riêng được giao dịch ngày càng gia tăng, không chỉ đáp ứng nhu cầu sản phẩm, dịch vụ CNC của xã hội, mà còn thúc đẩy TTCNC ở Trung Quốc không ngừng phát triển. Đó là cách thức để Trung Quốc đạt được mục tiêu đến năm 2025 trở thành một nước có nền CNC.

2.3.1.2. Kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức

Từ thực tiễn phát triển thị trường KHCN nói chung, phát triển TTCN nói riêng, trong đó có TTCNC ở Cộng hòa liên bang Đức (sau đây gọi tắt là Đức) thời gian qua có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:

Thứ nhất, phát triển thị trường KHCN theo hướng ưu tiên đầu tư cho R&D làm nền tảng phát triển TTCN, trên cơ sở đó phát triển TTCNC. Để phát triển thị trường KHCN, Chính phủ Đức coi trọng kiến tạo khung pháp lý, ban hành các chính sách khuyến khích, trong đó trọng tậm là chính sách hỗ trợ tăng cường năng lực R&D. Phát triển TTCNC trên cơ sở phát triển thị trường KHCN đến một trình độ nhất định là cách thức phát triển TTCN, trong đó có TTCNC không chỉ được tiến hành ở Đức, mà nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác cũng tiến hành. Tuy nhiên, là quốc gia có nền kinh tế phát triển đứng hàng thứ tư thế giới và có vai trò dẫn dắt nền kinh tế của khối Liên minh Châu Âu, đặc biệt trong lĩnh vực KHCN, Đức là một trong những nước hàng đầu về R&D, nên việc phát triển TTCNC trên cơ sở phát triển thị trường KHCN theo hướng ưu tiên đầu tư cho R&D ở Đức có những đặc thù và đạt được kết quả mà không phải quốc gia nào cũng làm được. Theo đó, các hoạt động R&D rất được coi trọng và Chính phủ Đức hỗ trợ các hoạt động R&D bằng cách đầu tư hàng tỷ đô la nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia hoạt động này. Đặc biệt, đến năm 2019, Chính phủ Đức đã dành 2,98% GDP cho R&D và đặt mục tiêu đạt 3% GDP năm 2020 cho hoạt động này [15]. Nhờ coi trọng ưu tiên đầu tư cho hoạt động R&D mà TTCN nói chung, TTCNC ở Đức được đánh giá là phát triển rất mạnh mẽ, mang lại hiệu quả thiết thực.

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 07/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí