Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020 - 2


Số năm đi học trung bình của dân số tính từ 25 tuổi trở lên : là số năm trung bình một người được đi học.

Trình độ văn hóa của dân số hay của NNL là một chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng NNL và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển KT - XH. Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn.

◆ Trình độ chuyên môn kỹ thuật (CMKT)

Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường THCN, CĐ, ĐH và sau ĐH, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Do đó trình độ chuyên môn của NNL được đo bằng :

Tỷ lệ tốt nghiệp trung cấp

Tỷ lệ tốt nghiệp CĐ, ĐH Tỷ lệ tốt nghiệp trên ĐH

Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ hơn như ĐH bao gồm : kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ…thậm chí trong từng chuyên môn lại chia thành những chuyên môn nhỏ hơn nữa.

Trình độ kỹ thuật của NLĐ thường dùng để chỉ trình độ của người được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định, những kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu :

- Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông ;

- Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.

- Trình độ tay nghề theo bậc thợ;

Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường kết hợp chặt chẽ với nhau, thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không được đào tạo trong từng NNL.

Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020 - 2

Các chỉ tiêu tổng hợp đánh giá trình độ CMKT của NNL

Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là % số lao động đã qua đào tạo so với tổng số lao động.

Chỉ tiêu này dùng để đánh giá khái quát về trình độ chuyên môn của LLLĐ mỗi quốc gia, của các vùng lãnh thổ.

Tỷ lệ lao động theo cấp bậc đào tạo (CNKT ; THCN; ĐH và sau ĐH):

Cơ cấu bậc đào tạo tính theo ĐH, CĐ / trung học/ dạy nghề cho ta thấy được cơ cấu này có cân đối với nhu cầu của thực tế hay không. Trên cơ sở đó có kế hoạch điều chỉnh nhu cầu đào tạo tổng thể.

ŒThứ ba : về phẩm chất tâm lý xã hội của NNL

Ngoài yếu tố thể lực và trí tuệ, quá trình lao động đòi hỏi NLĐ hàng lọat phẩm chất như: tính kỷ luật, tự giác, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao…Những phẩm chất này gắn liền với truyền thống văn hóa dân tộc.

Để đánh giá yếu tố này rất khó dùng phương pháp thống kê và xác định các chỉ tiêu định lượng như các yếu tố về thể lực và trí tuệ của NNL. Vì vậy, phương pháp phương pháp đánh giá chất lượng NNL về yếu tố phẩm chất tâm lý xã hội thường được tiến hành bằng các cuộc điều tra tâm lý và xã hội học và được đánh giá chủ yếu bằng các chỉ tiêu định tính. Tuy nhiên, trong từng khía cạnh của phẩm chất này, người ta cũng có thể đánh giá bằng phương pháp thống kê và xác định bằng các chỉ tiêu định hướng như : tỷ lệ NLĐ vi phạm kỷ luật về thời gian lao động (đi muộn, về sớm, không chấp hành quy định giờ giấc lao động trong thời gian làm việc), tỷ lệ số người vi phạm nguyên tắc làm việc, tỷ lệ số người bị thi hành kỷ luật trong năm…

º Thứ tư : chỉ tiêu tổng hợp HDI

Chỉ số phát triển con người HDI

Để đo lường kết quả và đánh giá thành tựu phát triển con người, Báo Cáo Phát Triển Con Người năm 1990 và các Báo Cáo tiếp theo của Tổ chức phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) đã đưa ra một loạt các chỉ số, trong đó chỉ số tổng hợp nhất và được sử dụng phổ biến nhất được đưa ra từ năm 1990 (và được hiệu chỉnh lại năm 1999) là chỉ

số phát triển con người (Human Development Index - HDI). HDI được xác định theo ba yếu tố cơ bản và tổng hợp nhất : sức khỏe, trình độ học vấn và thu nhập.

- Về sức khỏe : được xác định qua chỉ tiêu tuổi thọ bình quân của dân số;

- Về trình độ học vấn : được xác định qua hai chỉ tiêu : tỷ lệ dân số biết chữ và số năm đi học của một người (tính từ 25 tuổi trở lên);

- Về thu nhập : được đo bằng chỉ tiêu GDP tính bình quân đầu người thực tế;

Trên cơ sở thiết lập giới hạn cận trên và cận dưới phù hợp trạng thái phát triển con người toàn cầu, HDI chỉ nhận giá trị trong khoảng từ 0 đến 1. HDI của một quốc gia càng lớn thì trình độ phát triển con người của quốc gia đó được coi là càng cao và ngược lại. HDI là thước đo tương đối tổng hợp, vượt ra khỏi khía cạnh kinh tế thuần túy về sự phát triển, bổ sung cho thước đo giáo dục, dẫu quan trọng nhưng còn phiến diện và sai lệch. Có thể nói, với HDI, việc đánh giá về thành tựu phát triển trở nên toàn diện và phản ánh chân thực hơn. Theo thời gian, HDI không chỉ phản ánh trạng thái và những tiến bộ về phát triển con người, mà còn là một căn cứ để lựa chọn và xác định các mục tiêu và chính sách phát triển.

Tuy nhiên, HDI là một chỉ số còn tương đối giản đơn, không bao quát hết tính phong phú, nhiều mặt của sự phát triển con người. Nó chỉ phản ánh một cách gián tiếp, do đó chưa đầy đủ và còn bỏ qua một số khía cạnh có liên quan đến chất lượng sống của con người như chính trị, văn hóa, môi trường hay mức độ tham gia của người dân. HDI của một quốc gia chỉ là một chỉ số trung bình, do đó, cũng như giáo dục, nó có thể che lấp các quá trình phân phối, tình trạng bất bình đẳng, hay sự khác biệt về phát triển con người giữa các vùng và các nhóm dân cư. Nó có thể không làm nổi bật được những thách thức cần được ưu tiên giải quyết của một quốc gia trong tiến trình phát triển. Các khía cạnh chất lượng của các yếu tố cấu thành HDI cũng khó có thể phản ánh đầy đủ : trình độ giáo dục thật ra không chỉ thể hiện bằng tỷ lệ biết chữ hay số năm đi học mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như chất lượng giáo dục, khả năng và cơ hội lựa chọn của người học, đặc biệt với giáo dụcbậc cao.

Cho đến nay HDI vẫn là một chỉ số tốt nhất được dùng để đánh giá sự phát triển con nguời của một quốc gia. Tuy nhiên, những xem xét vừa nêu trên cho thấy HDI cần được sử dụng cùng với nhiều thước đo bổ sung khác. Chẳng hạn, nhằm chỉ rõ sự khác biệt về trình độ phát triển con người giữa các vùng, các nhóm xã hội, cần xây dựng HDI chi tiết cho từng địa phương và từng nhóm đối tượng dân cư cần nghiên cứu.

1.2 Phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh gia nhập WTO‌

1.2.1 Vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trong bối cảnh gia nhập WTO

Vai trò quan trọng mang tính quyết định của NNL đối với sự phát triển KT - XH của các quốc gia là vấn đề đã được khẳng định. Những công trình nghiên cứu gần đây đều đi đến kết luận rằng : con người là nguồn vốn lớn nhất và quý nhất, là yếu tố quyết định nhất cho mọi quá trình phát triển KT – XH.

So với các nguồn lực khác, NNL có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không những bị cạn kiệt trong quá trình khai thác và sử dụng mà ngược lại nó còn có khả năng tái sinh và phát triển. Chính điều này là điểm khác biệt cơ bản giữa nguồn vốn sức lao động và các nguồn vốn khác, là yếu tố cơ bản làm cho nhân tố con người trở thành nguồn lực chính cho sự phát triển nhanh và bền vững. Do đó, ở hầu hết các quốc gia hiện nay đều đặt con người ở vị trí trung tâm cúa sự phát triển và đề ra các chính sách, biện pháp nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực quan trọng nay.

Đề cao vai trò của yếu tố con người cũng là nét nổi bật trong tư tưởng kinh tế của Mác. Với tư tưởng chủ đạo : chỉ có lao động mới tạo ra giá trị và là nguồn gốc của của cải xã hội, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đánh giá rất cao vai trò của yếu tố con người. Việc sử dụng đầy đủ và có hiệu quả tiềm năng nhân lực là vấn đề cơ bản nhất để phát triển sản xuất và nâng cao năng suất. Ngay cả trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp, khi khoa học đang trực tiếp trở thành một bộ phận quan trọng hàng đầu của lực lượng sản xuất, các phát minh khoa học được áp dụng ngày càng nhiều hơn vào sản xuất, vai trò của yếu tố con người không vì thế mà giảm nhẹ. Điều này đã được Mác khẳng định : trong quá trình lao động, nhờ những tư liệu lao

động, sự hoạt động của con người làm cho đối tượng lao động phải thay đổi theo một mục đích đã định trước… [8, 271]. Tất cả những thứ đó là thành quả sáng tạo của bộ óc con người, được bàn tay con người tạo ra, là sức mạnh tri thức đã được vật hóa.

Nhận xét trên đây của Mác có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó cho thấy tiến bộ kỹ thuật không hề làm giảm nghĩa của yếu tố con người mà ngược lại, cùng với quá trình áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, con người cùng với tiềm năng trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng.

Thực tiễn trong lịch sử cũng cho thấy, những quốc gia tiến hành công nghiệp hóa dựa vào khai thác và sử dụng tiềm năng của yếu tố con người thì luôn giữ được tốc độ nhanh và bền vững như Nhật Bản và các quốc gia Đông Á như Hàn Quốc, Hồng kông, Singapore. Ngược lại, những quốc gia chỉ dựa vào điều kiện tự nhiên hoặc vốn từ bên ngoài như số nước Trung Đông, Châu Phi hoặc Mĩ La Tinh thì tốc độ tăng trưởng và phát triển không ổn định. Chẳng hạn, Nigiêria- một quốc gia rất giàu có nhờ dầu lửa, vào những năm 70 do lãng phí nguồn tài nguyên trời cho vào những công trình thế kỷ như xây dựng những nhà máy sản xuất thép với quy mô đồ sộ và một thủ đô mới… nên ngày nay dân chúng Nigieria còn nghèo hơn cả lúc mới giành được độc lập năm 1960. Hoặc Brazil vào những năm 60, nền kinh tế tăng trưởng với mức thu nhập tăng trưởng 6,4% liên tục từ 1963- 1973. Nhưng vào năm 1982, Brazil đã rơi vào khủng hoảng về nợ nước ngoài và thu nhập bình quân đầu người không hề tăng trong suốt mười năm liền, lạm phát luôn ở mức trên 500%/năm [7, 21].

Qua những ví dụ trên cho thấy muốn phát triển kinh tế bền vững phải dựa vào yếu tố con người là chính chứ không thể dựa vào điều kiện tự nhiên hay các nguồn lực bên ngoài. Các quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á chính là những ví dụ tiêu biểu cho mô hình phát triển dựa vào khai thác và phát huy yếu tố con người.

Quan điểm con người đứng ở trung tâm của sự phát triển với ý nghĩa con người vừa là mục đích vừa là tác nhân của sự phát triển ngày càng được nhiều nước thừa nhận và phát triển hết sức phong phú cả về lí luận lẫn thực tiễn như một quy luật phát triển khách quan của thời đại. Theo Gregory Mankiw, nhà kinh tế học người Mỹ nổi

tiếng với mô hình tăng trưởng kinh tế Slow thì “sự đầu tư cho con người trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của từng cá nhân làm nâng cao mức sống của tòan xã hội và nhờ đó tạo khả năng tăng năng suất lao động”.

Trong điều kiện hiện nay, cuộc cách mạng KH – CN đã làm cho nền kinh tế thế giới bước vào đổi mới sự phát triển. Đặc điểm nổi bật của nền sản xuất hiện đại là hàm lượng khoa học cao, ưu tiên chất lượng hơn số lượng, cơ cấu sản xuất thay đổi liên tục do áp dụng cái mới, đầu vào vật chất ngày càng giảm, đầu vào trí tuệ ngày càng tăng…Những đặc điểm đó làm xuất hiện mô hình phát triển mới. Trong mô hình này, thông tin, tri thức là những yếu tố quan trọng nhất. Do đó, trí tuệ ngày càng có vai trò quyết định cho sự phát triển. Hầu như tất cả đều thừa nhận rằng, tài nguyên chính của một quốc gia hiện nay là “ chất xám”, là khả năng sáng tạo của đội ngũ tri thức của đất nước. Tri thức trở thành tiêu chí tượng trưng cho sức mạnh và sự giàu có của mỗi con người, mỗi quốc gia, là phương tiện mạnh nhất để đạt được các kết quả KT – XH.

Coi trọng và đề cao trí thức cũng chính là đề cao yếu tố con người. Mô hình sản xuất lấy con người làm trung tâm trở thành biểu hiện nổi bật của chiến lược phát triển ở mọi quốc gia. Khai thác và phát huy tiềm năng yếu tố con người được coi là một giải pháp quan trọng nhất để cạnh tranh và phát triển trong điều kiện hiện nay.

Nói con người là nguồn vốn lớn nhất và quý nhất, là yếu tố quyết định cho mọi quá trình KT – XH lại càng đúng hơn khi đi sâu phân tích hoàn cảnh KT – XH cụ thể của nước ta hiện nay. Chúng ta gia nhập WTO trong điều kiện nền kinh tế còn lạc hậu, thủ công, năng suất lao động thấp với nông nghiệp chiếm tỷ trọng hơn 20% GDP, GDP bình quân đầu người chỉ mới 725$. Trình độ KH – CN đang ở mức trung bình kém. Trong ngành công nghiệp, nếu so với các nước phát triển, hệ thống máy móc, thiết bị của nước ta còn lạc hậu từ 2-4 thế hệ…. Cơ sở hạ tầng, dịch vụ yếu kém, chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển hiện tại và tương lai. Thách thức này thể hiện rõ nhất ở hệ thống đường giao thông, sân bay, bến cảng, điện nước… Cảng biển, sân bay thiếu về số lượng, kém về chất lượng… Về nguồn vốn, nhìn chung nền kinh tế nước ta cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác là thiếu vốn. Mặc dù tỷ lệ huy động

vốn hàng năm cho đầu tư phát triển trong những năm trở lại nay là khá cao nhưng vì quy mô sản luợng còn quá thấp (năm 2007 là 71tỷ $) nên số vốn thực tế dành cho đầu tư phát triển hàng năm còn ít so với một số nước khác trong khu vực. Do vậy, vốn là một trong những vấn đề khó khăn lớn nhất mà chúng ta cần phải giải quyết trong tiến trình phát triển kinh tế. Về tài nguyên thiên nhiên và khoáng sản, chúng ta tuy có phong phú về chủng loại song cũng không phải là “giàu có” so với các quốc gia khác trong khu vực. Điều này lại càng đúng khi xét theo chỉ số trên đầu người. Có thể lấy ví dụ về dầu mỏ, một tài nguyên mà trong những năm gần đây là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự tăng trưởng kinh tế ở nước ta bằng con đường xuất khẩu ra nước ngoài. Nhưng theo dự tính thì trữ lượng dầu khí của nước ta cũng chỉ tương tự như Malaixia-một nước mà dân số chỉ bằng ¼ dân số nước ta. Điều này chứng tỏ rằng nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng chưa thể coi là thế mạnh của nước ta, đó là chưa kể đến việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách lãng phí, kém hiệu quả và không khoa học.

Đánh giá sơ bộ những nguồn lực trên để chúng ta thấy rằng, các nguồn lực về vật chất của chúng ta còn rất yếu, chưa đủ làm tiền đề vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân. Trong điều kiện đó, việc gia nhập WTO sẽ mang lại cho chúng ta nhiều cơ hội để đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đưa nền sản xuất vốn còn nhỏ bé, lạc hậu và thủ công sang một nền kinh tế công nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng đang đối mặt với những nguy cơ bị “thôn tính” ngay trên “sân nhà”, trở thành mảnh đất màu mỡ cho những công ty và các quốc gia khác khai thác. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng đã khẳng định : bản thân những cơ hội tự nó không thể biến thành những lực lượng vật chất mà nó phụ thuộc vào sự tận dụng cơ hội của chúng ta và nếu không vượt qua những thách thức, hậu quả của nó có thể sẽ không thể khắc phục được. Hơn lúc nào hết, vượt qua thách thức, đón lấy cơ hội trở thành con đuờng tất yếu trong tiến trình phát triển KT - XH, mà nhiệm vụ đó có thể hòan thành hay không là phụ thuộc vào

những con người - NNL của Việt Nam, một nguồn lực có thể nói vừa là thế mạnh mà cũng vừa là điểm yếu của chúng ta.

Là thành viên chính thức của WTO đang là một thuận lợi để chúng ta đưa nền kinh tế tiến xa hơn, nếu chúng ta biết nắm bắt những thời cơ. Vào WTO, chúng

ta có cơ hội tiếp cận với các thành tựu KH – CN tiên tiến, thuận lợi trong việc phân công lao động, hợp tác quốc tế nhằm nâng cao trình độ tay nghề, trình độ quản lý kinh tế… Tuy nhiên, chính trong bối cảnh đó, áp lực đặt ra cho chúng ta vô cùng lớn. Lợi ích được phân phối cho các nước thành viên trong WTO là không đồng đều, và lợi thế luôn nghiêng về những nước phát triển. Vào WTO, tức chúng ta phải chịu áp lực cạnh tranh một cách bình đẳng giữa các ngành nghề, giữa các quốc gia khác nhau, với những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhất nhì thế giới : Mỹ, Nhật Bản… Nếu thua cuộc trong sự cạnh tranh khốc liệt đó, chắc chắn hậu quả để lại sẽ là vô cùng lớn. Không những trở thành “mảnh đất màu mỡ” cho các tập đoàn, các quốc gia khác khai thác mà sự lệ thuộc về kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến mất quyền tự chủ về chính trị. Do vậy, để tồn tại và phát triển trong điều kiện đó, bắt buộc các DN cũng như toàn thể nền kinh tế phải nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc sản xuất ra các hàng hóa – dịch vụ có chất lượng cao, giá thành thấp; phải có những quyết sách đúng đắn; phải có tư duy kinh tế rộng. Làm thế nào để chúng ta có thể “nhận” nhiều và “mất” ít khi tham gia vào sân chơi toàn cầu là vấn đề cả dân tộc cùng trăn trở. Tất cả những điều đó đều phụ thuộc vào đội ngũ NNL, những con người tham gia vào tất cả các họat động sản xuất

– kinh doanh – dịch vụ trong nền kinh tế. Hội nhập đặt ra yêu cầu cần phải có những con người có năng lực, có trình độ chuyên môn giỏi, có tác phong làm việc chuyên nghiệp, có kỷ luật và ý thức xã hội cao. Chính những con người đáp ứng được những tiêu chuẩn đó mới có đủ sức “chèo chống” đưa Việt Nam vượt qua thách thức, đón lấy cơ hội và tiến xa hơn trên con đường thực hiện mục tiêu xây dựng một đất nước XHCN tiến bộ, công bằng, văn minh.

Từ những sự phân tích trên có thể kết luận rằng, mấu chốt để đưa đất nước ta đi lên là phát huy triệt để yếu tố con người và nguồn lực chủ yếu mà chúng ta có thể dựa vào

để tiến hành phát triển đất nước là nhân tố con người, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đã hội nhập vào WTO. Do vậy, việc nâng cao chất lượng NNL nhằm phục vụ phát triển KT - XH là vấn đề có ý nghĩa then chốt nhất trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, đưa nền kinh tế đất nước phát triển hùng mạnh.

1.2.2 Các yếu tố tác động đến nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh gia nhập WTO

Thứ nhất Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế gắn liền với hội nhập WTO.

Cơ cấu kinh tế thành phố đang chuyển mạnh theo hướng dịch vụ, công nghiệp, đặc biệt là dịch vụ cao cấp. Cùng với việc hội nhập WTO, luồng vốn FDI và các công nghệ mới đổ vào Việt Nam và TP.HCM trong thời gian qua cũng gia tăng đáng kể làm cho kinh tế thành phố đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ theo hướng phát triển mạnh những ngành thâm dụng khoa học, kỹ thuật và chất xám. Đó là những ngành dịch vụ, công nghiệp, đặc biệt là dịch vụ cao cấp : ngân hàng, chứng khoán, tài chính, công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục , cơ khí, điện tử – tin học, hóa chất, chế biến…Đó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng đến một mô hình thành phố công nghiệp trong những năm sắp tới. Cơ cấu kinh tế này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới đồng thời khai thác được những lợi thế của thành phố. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế này kéo theo sự chuyển dịch trong cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động trong các ngành dịch vụ và công nghiệp, trong đó, lao động trong ngành dịch vụ cao cấp phải tăng nhanh hơn ngành công nghiệp, đồng thời giảm lao động trong ngành nông nghiệp một cách tuyệt đối. Vì vậy, trong chiến lược phát triển NNL thành phố trong bối cảnh gia nhập WTO hiện nay, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong những yếu tố có tác động sâu sắc nhất.

Thứ hai : Sự gia tăng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Gia nhập WTO sẽ làm tăng mạnh nguồn vốn này vào Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. Sự có mặt nhiều DN, tập đoàn và đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia (TNCs) đã làm tăng nhu cầu về lao động có trình độ chuyên môn, kỹ năng

nghề nghiệp đồng thời giảm nhu cầu về lao động kỹ năng thấp. Điều này dẫn đến một lượng lớn lao động tay nghề thấp sẽ có nguy cơ bị mất việc làm và rất khó tìm việc hơn. Trong tình trạng đó, NLĐ sẽ phải nỗ lực hơn để tìm kiếm một công việc mới và để làm được điều đó thì NLĐ sẽ phải nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề của mình. Ngoài ra, sự di chuyển vốn thường kèm theo di chuyển công nghệ, kiến thức kinh doanh và quản lý. Do đó, kích thích phát triển giáo dục đào tạo lao động lành nghề đáp ứng sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại TP.HCM trên cả ba lĩnh vực : tay nghề, năng lực quản lý và tác phong làm việc. NLĐ có trình độ và kỹ năng cũng phải thường xuyên cập nhật kiến thức để nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng vận hành công nghệ hiện đại với tinh thần “học tập suốt đời” nhằm đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động luôn biến đổi; một số lượng không nhỏ lao động có cơ hội được tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm làm việc của lao động nước ngoài, được các tập đoàn trực tiếp đào tạo (đào tạo lại), kể cả đào tạo ở nước ngoài cùng với sự “cọ xát” trong một môi trường làm việc năng động hơn, chuyên nghiệp hơn của những lao động có tay nghề cao, có phong cách làm việc chuyên nghiệp…sẽ có tác động thúc đẩy một bộ phận không nhỏ lao động tự tìm cách để “nâng tầm” mình lên. Những điều này sẽ có tác động tích cực nâng cao chất lượng NNL. Luồng vốn này còn làm tăng nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, góp phần tạo ra nhiều việc làm, bao gồm cả việc làm trực tiếp và gián tiếp, nâng cao chất lượng NLĐ. Như vậy, đây là một trong những yếu tố hết sức quan trọng tác động đến NNL TP.HCM trong bối cảnh hội nhập WTO.

- Thứ ba Tự do hoá thương mại diễn ra mạnh mẽ

Gia nhập WTO dẫn đến tự do hóa thương mại diễn ra mạnh mẽ, điều này sẽ thúc đẩy việc mở rộng phân công và hợp tác lao động giữa các nước thành viên, làm cho việc phân bố và sử dụng các nguồn tài nguyên, NNL và các nguồn lực khác của các nước một cách hợp lý hơn. Tự do hoá thương mại thúc đẩy cạnh tranh về giá cả, chất lượng hàng hoá và quy trình sản xuất, quản lý lao động... Do vậy, yêu cầu đào tạo, huấn luyện NNL ngày càng cao. Mặt khác, tự do hoá thương mại còn là một thách

thức lớn đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam vì hàng hoá có hàm lượng tri thức cao của các nước này chiếm tỷ lệ thấp, trình độ sản xuất hạn chế, hàng hoá không có khả năng cạnh tranh được với hàng hoá của các nước phát triển. Vì vậy, để có thể tồn tại được trong cạnh tranh thương mại toàn cầu thì việc nâng cao chất lượng NNL là điều cần thiết và có ý nghĩa cấp bách nhất đối với Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng trong bối cảnh hiện nay.

- Thứ tư : Sự di chuyển lao động giữa các nước thành viên WTO

Trong quá trình hội nhập WTO sẽ diễn ra các dòng dịch chuyển lao động : xuất khẩu lao động từ các nước ít phát triển tới các nước phát triển, có nhiều việc làm và tiền công cao; di chuyển lao động chuyên môn kỹ thuật của các nước phát triển vào các nước tiếp nhận công nghệ (các chuyên gia khoa học công nghệ). Điều này giúp lao động trong nước có thể tiếp cận và nâng cao trình độ tay nghề, kinh nghiệm làm việc, quản lý từ lao động chuyên gia nước ngoài. Ngoài ra, còn có dòng di chuyển trong nước. Những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, nhất là ở những KCN và KCX, tạo nên dòng di chuyển lao động trong nước từ những vùng nông thôn ra thành thị, từ khu vực nông nghiệp chuyển sang khu vực công nghiệp, từ nơi thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao. Như vậy, tác động của sự di chuyển lao động trong thời kỳ hội nhập WTO sẽ làm tăng thu nhập cho NLĐ, tác động trực tiếp và gián tiếp đến chất lượng NNL. Tuy nhiên, điều này dẫn đến tình trạng là tập trung quá nhiều lao động từ khu vực nông thôn về thành phố và đây cũng là khó khăn cho thành phố trong việc giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, đặc biệt là việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho NNL. Như vậy, sự di chuyển lao động có tác động rất lớn đến số lượng, chất lượng và cơ cấu NNL TP.HCM trong bối cảnh gia nhập WTO.

Thứ năm : Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo do quá trình mở cửa và hợp tác theo lộ trình gia nhập WTO

Cùng với việc cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải mở cửa cho nước ngoài đầu tư vào một số ngành dịch vụ, trong đó có cả lĩnh vực giáo dục đào tạo. Điều đó sẽ giúp cho giáo dục trong nước được tiếp cận với những công nghệ đào tạo tiên tiến,

chuyên nghiệp và hiệu quả hơn từ những nước có nền giáo dục phát triển. Từ đó sẽ tạo điều kiện để đổi mới và hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo đang còn nhiều bất cập và yếu kém của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng. Tính “độc tôn” trong lĩnh vực này sẽ phần nào bị xóa bõ. Sự cạnh tranh sẽ diễn ra giữa hệ thống đào tạo trong nước và những tổ chức, trung tâm, trường quốc tế. Để tồn tại được thì bản thân các trường và cơ sở giáo dục đào tạo trong nước bắt buộc phải điều chỉnh toàn bộ hệ thống cả phương pháp, nội dung đào tạo theo huớng mở, tăng tính chuyên môn, thực hành, hiện đại để bắt kịp trình độ giáo dục quốc tế và đáp ứng được yêu cầu đào tạo ngày càng cao hơn trong thời kỳ hội nhập. Đây là yếu tố có tác động rất lớn đến sự phát triển NNL của TP.HCM.

Như vậy, phát triển NNL ở TP.HCM trong quá trình gia nhập WTO chịu sự tác động mạnh mẽ của nhiều yếu tố. Nhận thức được sự tác động và vai trò của các yếu tố đó đến sự phát triển NNL sẽ giúp chúng ta có những định hướng đúng đắn để phát triển NNL.

1.2.3 Yêu cầu của việc phát triển nguồn nhân lực TP.HCM trong bối cảnh gia nhập WTO

Trong bối cảnh gia nhập WTO, NNL của quốc gia sẽ chịu nhiều yếu tố tác động khác nhau, vì vậy, yêu cầu phát triển NNL cũng sẽ có nhiều thay đổi so với trước đây nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Chẳng hạn, qua một công trình nghiên cứu của một công ty tư vấn quốc tế thăm dò ý kiến các vị chủ tịch và tổng giám đốc của 200 công ty xuyên quốc gia về vấn đề tuyển dụng nhân viên làm việc tại Trung Quốc cho thấy : trước đây các tiêu chuẩn thường được đưa ra ngoài tiêu chuẩn cơ bản về trình độ CMKT là : tính tốt, cần cù, trung thành, có trách nhiệm.... Nhưng ngày nay những tiêu chuẩn này đã thay đổi thành: có tính sáng tạo, có khả năng tư duy, xử lý vấn đề, có khả năng phân tích, có tinh thần đồng đội, có khả năng diễn đạt, v.v.... Nói chung NNL phải được huấn luyện tốt. Vì vậy, quá trình hội nhập đặt ra những yêu cầu cao đối với sự phát triển NNL TP.HCM trên cả 3 phương diện : thể lực, trí lực và cả phẩm chất tâm lý xã hội nhưng với yêu cầu cao hơn.

OVề mặt thể lực : có sức khỏe tốt cả về mặt thể chất và tinh thần. Ngoài cơ thể khỏe mạnh, sự dẻo dai cơ bắp thì sự sảng khoái về tinh thần, thoải mái về tâm lý đủ khả năng làm việc với áp lực cao, linh hoạt trong việc chuyển đổi công việc, đặc biệt là có dễ dàng di chuyển địa điểm làm việc… là điều kiện không thể thiếu đối với NNL.

0Về mặt trí lực : một NNL có trình độ văn hóa, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao là đòi hỏi hàng đầu và là nhân tố quyết định sự thành công trong hội nhập. Sự phát triển NNL trong bối cảnh hội nhập cần đáp ứng những yêu cầu sau :

Thứ nhấtcần phải làm một cuộc cách mạng về đào tạo ngành nghề trong xã hội để chuẩn bị một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu của một hệ thống ngành nghề mới đang phát triển phù hợp với sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế trong bối cảnh gia nhập WTO và cuộc cách mạng KH - CN hiện đại dẫn đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.

Trong quá trình hội nhập, sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đã làm tăng mạnh nhu cầu lao động trong hai khu vực dịch vụ và công nghiệp kỹ thuật cao, trong khi đó giảm mạnh lao động trong khu vực nông nghiệp. Do vậy, trong quá trình đào tạo và phát triển NNL, việc tăng cường đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao làm việc trong các ngành dịch vụ, đặc biệt là những ngành cao cấp : ngân hàng, tài chính tín dụng, vận tải, du lịch, công nghệ thông tin, bất động sản..và những ngành công nghiệp kỹ thuật cao nhằm kịp thời đáp ứng yêu cầu phát triển là một vấn đề cấp bách.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, thành phố còn phải hướng đến việc đào tạo những con người thích ứng với thời đại cạnh tranh ồ ạt và khốc liệt để phát triển. Việc đào tạo một thế hệ mới các doanh nhân - những người lao động có tri thức

– KH CN hiện đại, tri thức - năng lực kinh doanh - năng lực cạnh tranh để dẫn dắt doanh nghiệp giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh kinh tế trong và ngoài nước, phải là mục tiêu cơ bản trong chính sách giáo dục – đào tạo của Việt Nam nói chung và TP.HCM nói riêng.

Thứ haitrong bối cảnh hội nhập vào nền kinh tế thế giới, việc đào tạo NNL cần phải được đầu tư phát triển theo một phương châm mới, đó là đào tạo thường xuyên - đào tạo suốt đời.

Do sự thay đổi nhanh chóng của KH - CN và do tính linh hoạt ghê gớm của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới, kiến thức – kỹ năng trở nên dễ bị lạc hậu. Vì vậy, giáo dục & đào tạo phải trở thành một nhu cầu suốt đời của con người. Giáo dục phổ thông và chuyên nghiệp phải giúp con người có thể học thường xuyên - học suốt đời, và giáo dục phải chuẩn bị cho con người về nội dung và phương pháp để học thường xuyên - học suốt đời.

- Thứ baviệc sử dụng phổ biến tiếng Anh trong giáo dục & đào tạo là một yêu cầu thiết yếu trong thời kỳ gia nhập WTO.

Tiếng Anh là ngôn ngữ toàn cầu, thứ tiếng của doanh nghiệp, của chính trị, của ngoại giao, là tiếng “mẹ đẻ” của ngôn ngữ máy tính và Internet. Sự phổ biến của tiếng Anh là sự thật không thể phủ nhận, và trong thực tế tiếng Anh là ngôn ngữ của toàn cầu hóa kinh tế. Muốn hội nhập kinh tế thế giới, tham gia vào thương mại toàn cầu thì phải biết sử dụng tiếng Anh, nó trở thành điều kiện bắt buộc và quốc gia, lãnh thổ nào giỏi tiếng Anh sẽ là một thế mạnh rất lớn trong quá trình hội nhập, mà Ấn Độ là một điển hình. Việc dạy tiếng Anh trong hệ thống giáo dục thời kỳ hội nhập phải gắn liền với dạy tin học và ngược lại, dạy tin học gắn liền với dạy tiếng Anh. Đó được xem là công cụ bắt buộc cần phải có để có thể hội nhập vào kinh tế thế giới.

- Thứ tưcần có đối sách giảm thiểu tình trạng “chảy máu chất xám” khi thương mại hóa quốc tế trong lĩnh vực giáo dục & đào tạo ngày càng phát triển, theo tiến trình gia nhập WTO.

Theo lộ trình gia nhập WTO thì chúng ta phải mở cửa cả trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Trong đó việc du học nước ngoài, du học tại chỗ … được coi là hành động xuất khẩu dịch vụ giáo dục – đào tạo và đây được xem là hình thức nhập khẩu tri thức khoa học công nghệ có hiệu quả cao của các quốc gia đang phát triển, trong đó có chúng ta. Tuy nhiên việc người học sau khi được đào tạo đã không quay trở về quê

hương làm việc, cống hiến đang trở nên phổ biến. Vì vậy thành phố cần phải có đối sách nhằm giảm thiểu tình trạng “chảy máu chất xám” sau đào tạo bằng nhiều biện pháp, từ kinh tế tới chính trị, văn hóa, pháp luật, chế tài …

- Thứ năm cần phải đánh giá đúng vai trò và nhanh chóng đào tạo đội ngũ lao

động CNKT tay nghề cao.

Đây là yêu cầu cấp bách trong quá trình phát triển NNL trong thời kỳ hội nhập. Trong thời gian qua, chúng ta đã không đánh giá đúng vai trò và vị trí của đội ngũ lao động này và vì thế, chưa có sự đầu tư nghiêm túc để phát triển lao động nghề. Trong khi đó, không có sự tồn tại và phát triển của một quốc gia nào mà lại thiếu đội ngũ lao động này. Để đảm bảo phát triển hiệu quả thì việc nhanh chóng đào tạo đội ngũ lao động CNKT là điều có ý nghĩa hết sức quan trọng.

- Thứ sáu cần phải nâng cao ý thức công dân, lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm đối với cộng đồng. Những phẩm chất này sẽ giúp NLĐ có thể vượt qua được những cám dỗ bời những mặt trái của nền kinh tế thị trường, nơi đồng tiền với những “sức mạnh vạn năng” của nó có thể làm đảo lộn mọi luân thường đạo lý, chà đạp luơng tâm, phẩm hạnh của con người. Đặc biệt trong bối cảnh hội nhập thì đặc điểm trên là hết sức cần thiết.

ŒVề mặt phẩm chất tâm lý xã hội của NNL

Yêu cầu phát triển NNL đòi hỏi NLĐ phải có những phẩm chất tâm lý xã hội cơ bản sau :

- Có ý thức kỷ luật và tự giác cao

- Có niềm say mê nghề nghiệp, có tinh thần đồng đội.

- Sự sáng tạo, năng động trong công việc.

- Có khả năng phân tích, xử lý công việc linh hoạt.

- Có kỹ năng giải quyết vấn đề và có kỹ năng làm việc nhóm.

- Có khả năng chuyển đổi công việc cao thích ứng với những thay đổi trong lĩnh vực công nghệ và quản lý.

Xem tất cả 64 trang.

Ngày đăng: 11/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí