thành thị của cả nước là 5,2% năm 2006). Cơ cấu lao động trong lĩnh vực dịch vụ là 50,08%; khu vực công nghiệp - xây dựng: 44,78%; cơ cấu lao động trong khu vực nông nghiệp giảm dần qua các năm và còn 5,15%. Như vậy, trong cơ cấu lao động đang làm việc ở thành phố thì lao động trong lĩnh vực nông nghiệp là rất thấp, trong đó, ngành thủy sản chiếm một tỷ lệ rất ít (0,56%), mặc dù thành phố có nhiều tiềm năng để phát triển lĩnh vực này. Điều này cho thấy, kinh tế thành phố chủ yếu phát triển các ngành dịch vụ, công nghiệp và nơi đây tập trung phần lớn lao động có trình độ chuyên môn cao, vì đặc trưng của 2 ngành này là lao động có chất xám cao. Riêng trong ngành công nghiệp – xây dựng thì công nghiệp chế biến có số lượng lao động tham gia cao nhất (1.020.743 người). Lĩnh vực dịch vụ chiếm trên 50% lao động của thành phố, trong đó, lao động trong ngành thương mại chiếm tỷ trọng cao nhất (15,04%). Trong năm 2007 thì cơ cấu lao động tiếp tục dịch chuyển rõ nét theo hướng tăng lao động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ và công nghiệp – xây dựng, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp tiếp tục giảm do tác động của quá trình đô thị hóa ở khu vực ngoại thành. Như vậy có thể thấy lao động ngày càng chuyển dịch theo hướng phù hợp với quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Cũng theo Sở LĐ TB và XH, năm 2007, các khu vực kinh tế cần 30% lao động có trình độ CMKT cao trong tổng số 250.000 lao động. Tỉ lệ này sẽ gia tăng vào những năm kế tiếp, nhất là trong bối cảnh thành phố đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu ngành nghề kinh tế theo hướng giảm dần các ngành nghề sử dụng công nghệ thấp, thâm dụng lao động bằng những ngành nghề công nghệ hiện đại, sử dụng lao động có hàm lượng chất xám cao. Có một thực tế là từ hiện trạng lao động đến DN, nhà đào tạo, kể cả các cơ quan hoạch định chính sách nhân lực, đều chưa kịp “trở mình” trước sự thay đổi quá nhanh của thị trường lao động.
Bảng 2.8 : Lao động đang làm việc tại thời điểm 1/7 hàng năm phân theo ngành kinh tế
Chỉ tiêu | 2000 | 2005 | 2006 | |||
Trị số (người) | Cơ cấu (%) | Trị số (người) | Cơ cấu (%) | Trị số (người) | Cơ cấu (%) | |
Tổng số (người) | 2.241.434 | 100 | 2.676.420 | 100 | 2.776.981 | 100 |
I.Khu vực I (nông – lâm nghiệp – thủy sản) | 142.091 | 6,34 | 145.282 | 5,43 | 142.834 | 5,15 |
1.Nông nghiệp - lâm nghiệp | 133.902 | 5,97 | 130.254 | 4,87 | 127.351 | 4,59 |
2.Thủy sản | 8.189 | 0,37 | 15.028 | 0,56 | 15.483 | 0,56 |
II. Khu vực II (công nghiệp – xây dựng) | 1.087.242 | 48,51 | 1.226.932 | 45,84 | 1.243.514 | 44,78 |
1.CN khai thác mỏ | 3.238 | 0,14 | 3.837 | 0,14 | 3.953 | 0,14 |
2.CN chế biến | 919.559 | 41,03 | 1.015.773 | 37,95 | 1.020.743 | 36,76 |
3.SX và phân phối điện, khí đốt và nước | 13.063 | 0,58 | 13.661 | 0,51 | 14.075 | 0,51 |
4.Xây dựng | 151.382 | 6,76 | 193.661 | 7,24 | 204.743 | 7,37 |
III. Khu vực III (Dịch vụ) | 1.012.101 | 45,15 | 1.304.206 | 48,73 | 1.390.633 | 50,08 |
1.Thương mại | 334.353 | 14,92 | 408.425 | 15,26 | 417.715 | 15,04 |
2.Khách sạn – nhà hàng | 154.816 | 6,91 | 138.587 | 5,18 | 145.907 | 5,25 |
3.Vận tải, kho bãi, thông tin liên lạc | 114.071 | 5,09 | 159.555 | 5,96 | 178.705 | 6,44 |
4.Tài chính – tín dụng | 9.585 | 0,43 | 24.842 | 0,93 | 26.667 | 0,96 |
5.Hoạt động KH và công nghệ | 2.575 | 0,12 | 3.087 | 0,12 | 3.181 | 0,11 |
6.Kinh doanh tài sản và tư vấn | 84.851 | 3,79 | 175.748 | 6,57 | 202.622 | 7,3 |
7.Giáo dục đào tạo | 79.264 | 3,54 | 90.36 | 3,38 | 94.040 | 3,39 |
8.Các hoạt động dịch vụ khác | 232.586 | 10,35 | 303.602 | 11,34 | 321.796 | 11,59 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020 - 1
- Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020 - 2
- Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020 - 3
- Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020 - 5
- Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020 - 6
- Phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong bối cảnh Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới giai đoạn 2006 – 2020 - 7
Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.
Nguồn : Niên giám thống kê TP HCM
2.1.4.2 Lao động đang làm việc chia theo khu vực kinh tế
Bảng 2.9 : Cơ cấu lao động đang làm việc chia theo khu vực kinh tế
Chỉ tiêu | 2000 | 2005 | 2006 | |||
Số người (người) | Cơ cấu (%) | Số người (người) | Cơ cấu (%) | Số người (người) | Cơ cấu (%) | |
Tổng số | 2.241.434 | 100 | 2676.420 | 100 | 2776.981 | 100 |
1.Nhà nước 2.Tư nhân 3.Có vốn đầu tư nước ngoài | 597.566 1.573.038 70.830 | 26,66 70,18 3,16 | 530.466 1.966.633 179.321 | 19,82 73,48 6,7 | 510.131 2.049.690 217.160 | 18,37 73,81 7,82 |
Nguồn : Xử lý tổng hợp từ số liệu thống kê TP.HCM và kết quả điều tra lao
động việc làm 1/7 hàng năm
Dựa vào bảng số liệu trên chúng ta thấy tính tới thời điểm 1/7 /2006 trên địa bàn thành phố, lao động làm việc trong thành phần kinh tế Nhà nước chiếm 18,37% tổng lao động đang làm việc. Nếu so với những năm trước thì tỷ lệ lao động trong thành phân kinh tế này đã giảm nhiều (năm 2000 : 26,66%, năm 2005 : 19,82%). Điều này một phần vì trong giai đoạn Nhà nước chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa các DN nhà nước, giải thể, sáp nhập một số DN làm ăn không hiệu quả đồng thời đây cũng là thời kỳ thành phố thực hiện chủ trương tinh giảm bộ máy nhà nước gọn, nhẹ và hiệu quả. Chính vì vậy, một bộ phận lớn lao động đã được giảm trong thời kỳ này. Bên cạnh đó, lao động trong thành phần kinh tế tư nhân và đặc biệt là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh (năm 2000 : 3,16%, năm 2005 : 6,7%, năm 2006 : 7,82%). Điều đó xuất phát từ việc Nhà nước chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các thành phần kinh tế cùng phát triển bằng hàng loạt các chính sách, biện pháp cụ thể. Trong năm 2007, TP.HCM tiếp tục là một trong những địa phương thu hút nguồn vốn FDI lớn nhất cả nước (khoảng 2,9 tỷ USD). Điều này góp phần làm tăng mạnh lao động trong thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
2.1.5 Khái quát về tình hình giáo dục, đào tạo và các chính sách phát triển nguồn nhân lực tại TP.HCM
2.1.5.1 Tình hình giáo dục – đào tạo
TPHCM là một trung tâm kinh tế – văn hóa lớn nhất cả nước, do vậy, ở đây có nhiều điều kiện để đầu tư phát triển hệ thống giáo dục – đào tạo. Về cơ bản, thành phố là nơi có hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị nhiều và hiện đại nhất so với các tỉnh thành khác trong nước. Thành phố đã chú trọng đầu tư cho giáo dục – đào tạo.
◆ Về Giáo dục
Giáo dục mầm non
Bảng 2.10 : Trường, lớp, giáo viên, học sinh mầm non trên địa bàn TP.HCM
Chỉ tiêu | Năm học | |||
2000-2001 | 2005 – 2006 | 2006 – 2007 | 2007 – 2008 | |
Trường học | 520 | 533 | 598 | 617 |
Lớp học | 3.779 | 5.608 | 6.246 | 6.580 |
Giáo viên (người) | 5.547 | 9.356 | 10.544 | 11.476 |
Học sinh (người) | 128.809 | 188.019 | 204.696 | 226.725 |
Số học sinh tính bình quân 1 lớp học (người) | 34 | 34 | 33 | 34 |
Số học sinh tính bình quân 1 giáo viên (người) | 23 | 20 | 19 | 20 |
Nguồn : Niên giám thống kê 2007
Số học sinh thuộc bậc học Giáo dục mầm non tăng mạnh từ 5.547 học sinh vào năm học 2000 – 2001 lên 226.725 học sinh năm học 2007 – 2008. Số giáo viên cũng tăng từ 5.547 giáo viên năm học 2000 – 2001 lên đến 11.476 giáo viên năm học 2007 – 2008. Số trường học cũng tăng từ 520 trường lên 617 trường năm học 2007 – 2008. Tất cả các chỉ tiêu về trường, lớp, học sinh, giáo viên qua các năm học đều tăng. Tuy nhiên, số học sinh bình quân trên 1 lớp và số học sinh bình quân trên 1 giáo viên là không tăng trong 3 năm học liên tiếp và đạt chuẩn theo quy định của Bộ giáo dục.
Trong hệ thống giáo dục của thành phố, loại hình đào tạo hệ công lập vẫn chiếm vị trí chủ đạo. Trong số 607 trường mẫu giáo trên địa bàn thì có 366 trường công lập, bán công 38 và dân lập là 203 trường; trong tổng số 193.976 học sinh mẫu giáo thì có
111.569 học sinh hệ công lập, chỉ có 15.949 hệ bán công và 66.458 hệ dân lập. Tuy nhiên, qua số liệu ta cũng thấy rõ, hệ thống dân lập trên địa bàn thành phố phát triển khá mạnh (chiếm 33,44% về tổng số trường học; 34,54 tổng số giáo viên và 34,26% tổng số học sinh) [phụ lục 4]. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển của thành phố hiện nay.
Giáo dục phổ thông
Tính đến năm học 2007 – 2008 thì toàn thành phố có 831 trường học dành cho học sinh phổ thông. Trong đó có 467 trường cấp 1; 231 trường cấp 2 và 81 trường cấp 3; 2 trường cấp 1+ 2, 50 trường cấp 2+3. Có 927.751 học sinh các cấp, trong đó học sinh cấp 1 là đông nhất : 423.437, chiếm 45,6%, học sinh cấp 2 có 327.652 học sinh, chiếm 35,32%, học sinh cấp 3 chiếm 19,08%. Có 35.812 giáo viên, trong đó giáo viên cấp 1 là đông nhất 14.275 người, chiếm 39,86% tổng số giáo viên. Số học sinh tính bình quân cho 1 giáo viên là 26, trong đó, số học sinh tính bình quân cho 1 giáo viên ở cấp 3 chỉ là 23; cấp 2 là 24; ở cấp tiểu học là 30. Bình quân 1 lớp học bậc tiểu học có 37 học sinh; ở cấp 2 là 43 học sinh; cấp 3 là 44 học sinh [phụ lục 5]. Tất cả các chỉ tiêu về Trường, lớp, học sinh, giáo viên của thành phố hệ công lập đều chiếm tỷ lệ cao so với các hệ dân lập và bán công [phụ lục 6].
Từ năm 1995, thành phố đã đạt tiêu chuẩn xoá mù chữ và phổ cập tiểu học; 100% số xã có trường tiểu học và 80% số xã có trường trung học cơ sở. Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao. Năm 2002, Sở GDĐT TPHCM đã đón nhận cờ lưu niệm và quyết định công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục THCS do Bộ GDĐT trao tặng và trở thành địa phương đầu tiên trong cả nước đạt được chuẩn này. Trong năm 2008, ngành giáo dục phấn đấu hoàn thành phổ cập bậc THPT.
Có một thực trạng là thành phố luôn rơi vào tình trạng thiếu giáo viên ở cả 4 cấp học. Bắt đầu năm học mới thì Sở GD đều tuyển giáo viên đề phục vụ cho năm học mới. Năm 2008, Sở đã tuyển khoảng 4.322 giáo viên ở cả 4 bậc học để phân bổ về cho các quận, huyện, trong đó có khoảng 900 giáo viên tiểu học và gần 1000 giáo viên mầm non. Số giáo viên được tuyển năm sau bao giờ cũng cao hơn năm trước, nhưng tình trạng thiếu giáo viên dường như vẫn còn là vấn đề mà các quận huyện lo ngại mỗi khi mùa tựu trường sắp tới. Theo báo cáo của Sở GD, mỗi năm sau khi tuyển xong, bình quân thành phố thiếu khoảng 1000 giáo viên
Nguyên nhân, bình quân mỗi năm có khoảng 2000 giáo viên về hưu, còn số giáo viên do Sở tuyển một phần không đủ chi tiêu để ra, một phần không nhận nhiệm
sở khi được phân bổ. Mặt khác, do áp dụng Thông tư 35 của Bộ Giáo dục -đào tạo, hệ số giáo viên/ lớp cao hơn trước, bên cạnh đó, nhu cầu học hai buổi/ ngày tăng, một số trường bán công chỉ có 50% biên chế, khi chuyển sang công lập tự chủ tài chính nên khó tránh khỏi việc thiếu giáo viên. Tình trạng thiếu giáo viên kéo dài nhiều năm nay, chủ yếu ở ngoại thành và các quận vùng ven, trong đó thiếu nhiều nhất vẫn là ở bậc tiểu học và mầm non. Một phần do số dân nhập cư tăng phải mở rộng trường lớp, phần khác giáo viên được bổ nhiệm về ngoại thành sau thời gian công tác theo qui định, họ được chuyển về dạy ở nội thành, nên các vùng ngoại thành thiếu giáo viên. Tình trạng này nếu không có những biện pháp khắc phục triệt để sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng giảng dạy.
◆ Về đào tạo
Trong năm học 2007, toàn thành phố có khoảng 104 trường ĐH, CĐ, THCN, trong đó, có 77 trường thuộc hệ thống đào tạo công lập, chiếm 74,04%; có 22 trường dân lập tư thục, chiếm 21,15% và 5 trường bán công, chiếm 4,8%. Tương ứng với khối lượng trường học, có 14.196 giáo viên, trong đó, giáo viên giảng dạy tại các trường ĐH là 10.072 người, chiếm 71% tổng số giáo viên trong các trường ĐH, CĐ và THCN. Tỷ lệ giáo viên thuộc các trường công lập là 55,4% tổng số giáo viên, giáo viên trường dân lập chiếm 15,23%. Sinh viên các trường công lập chiếm đa số (75,05%). Điều này cho thấy, hệ thống đào tạo công lập chiếm vị trí chủ đạo trong toàn bộ hệ thống đào tạo của thành phố về số trường học, giáo viên, sinh viên. Số lượng sinh viên đang học sau ĐH, ĐH, CĐ và THCN của thành phố là 417.878 người, trong đó, số lượng học viên đang học thạc sĩ, nghiên cứu sinh là 8.909 người, chiếm 2,13% tổng số sinh viên đang học; số sinh viên theo học ĐH, CĐ là 328.475 người, chiếm 78,61% tổng số sinh viên hiện có. Học viên theo học tại các trường THCN là 80.494 người, chiếm 19,3% tổng số sinh viên theo các hệ đào tạo. Ngoài ra, hàng năm, ước tính sơ bộ các trung tâm dạy nghề trên địa bàn thành phố đào tạo bình quân khoảng 350.000 học viên. Như vậy, tỷ lệ đào
tạo hiện nay của thành phố thì tỷ lệ giữa trình độ CNKT – THCN – CĐ, ĐH là : 1,04 – 0,24 - 1. Đây vẫn là một tỷ lệ không cân đối với yêu cầu phát triển kinh tế.
Bảng 2.11 : ĐH, CĐ, THCN năm học 2007 theo loại hình đào tạo năm 2007
Tổng số | Công lập | Bán công | Dân lập, tư thục | |
Trường học | 104 | 77 | 5 | 22 |
1.ĐH | 41 | 31 | 3 | 7 |
2.CĐ | 29 | 21 | 2 | 4 |
3.THCN | 34 | 23 | - | 11 |
Giáo viên | 14.196 | 11.201 | 833 | 2.162 |
1.ĐH | 10.072 | 7.863 | 570 | 1.639 |
2.CĐ | 2.627 | 2.145 | 263 | 219 |
3.THCN | 1.497 | 1.193 | - | 304 |
Sinh viên | 417.878 | 313.600 | 28.739 | 56.082 |
1.Trên ĐH | 8.909 | 8.754 | 155 | - |
2.ĐH | 247.678 | 193.855 | 16.547 | 37.276 |
3.CĐ | 80.797 | 62.355 | 9.940 | 8.502 |
4.THCN | 80.494 | 48.636 | 2.097 | 10.304 |
Nguồn : Niên giám thống kê 2007
Trong những trường ĐH công lập lớn của thành phố thì ĐH quốc gia (bao gồm
: ĐH Bách khoa, ĐH KHTN và ĐH khoa học, xã hội – nhân văn) chiếm một lượng sinh viên lớn nhất : 60.764 sinh viên. Nếu tính riêng lẻ thì ĐH kinh tế có số sinh viên đông nhất : 51.126 sinh viên, kế đến là ĐH Nông lâm : 23.980 sinh viên. Tuy nhiên, lượng giảng viên giảng dạy tại trường Y Dược là đông nhất : 864 người; trường ĐH Bách khoa là 845 người; ĐH Khoa học tự nhiên là 622 người.
Bảng 2.12 : Số sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH và CĐ
2004 | 2005 | 2006 | 2007 | |
Tổng số (người) | 44.011 | 49.437 | 50.425 | 51.432 |
Nguồn : Niên giám thống kê 2007
Số sinh viên tốt nghiệp hàng năm tại các trường ĐH, CĐ trên địa bàn thành phố tăng qua từng năm, đạt 51.432 người năm 2007. Trong đó, ĐH quốc gia có lượng sinh
viên tốt nghiệp cao nhất : 17.749 sinh viên, chiếm 34,5%. Tuy nhiên, số lượng sinh viên tốt nghiệp hàng năm chưa đủ đáp ứng theo nhu cầu nhân lực cho thành phố. Theo trung tâm gới thiệu việc làm TP.HCM, trong giai đoạn các năm 2007 đến 2010, bình quân mỗi năm trên địa bàn thành phố sẽ thu hút lao động cho 270.000 chỗ làm việc, trong đó 120.000 chỗ làm việc mới.
Theo Trung tâm giới thiệu việc làm TP.HCM, trong năm 2007, các khu vực kinh tế tại thành phố thu hút trên 250.000 lao động, trong đó 75.000 lao động phân bổ vào khu vực DN tư nhân trong nước, 80.000 lao động vào các khu chế xuất, khu công nghiệp và DN có vốn đầu tư nước ngoài, 60.000 lao động vào các cơ sở dịch vụ kinh doanh nhỏ, hộ kinh tế gia đình, kinh tế trang trại, 35.000 lao động vào các DN nhà nước, công ty cổ phần có vốn nhà nước. Trong tổng số nhu cầu tuyển dụng có trên 30% nhu cầu lao động chất lượng cao với các ngành nghề kỹ thuật công nghệ thông tin, quản lý kinh tế, tài chính, giáo dục, y tế. Trong khi đó, lao động tốt nghiệp các trường
ĐH, CĐ hàng năm khoảng 50.000 người. Như vậy, lượng lao động chất lượng cao được
đào tạo hàng năm chưa đủ để đáp ứng nhu cầu nhân lực trên địa bàn thành phố.
Một số ngành nghề có nhiều nhu cầu lao động thường xuyên là kỹ thuật cơ khí, hóa chất, kiến trúc, xây dựng vận hành máy, lắp ráp điện tử, kỹ thuật đồ họa, kỹ thuật điện – điện lạnh, kế toán, điều hành kinh doanh, quản lý sản xuất, nhu cầu tuyển lao động kỹ thuật và quản lý gồm có trình độ ngoại ngữ, kỹ năng tổ chức công việc. Hoạt động sản xuất kinh doanh tại thành phố cũng cần tuyển nhiều lao động có nghề và lao động phổ thông cho các ngành sản xuất điện tử, dệt, da, may, chế biến thực phẩm, tiếp thị, phục vụ ăn uống, du lịch, bán hàng...
◆ Tình hình dạy nghề
Trước yêu cầu phát triển của xã hội, thành phố đã nhận thức được sự cần thiết và tầm quan trọng phải phát triển hệ thống dạy nghề. Không chỉ thành phố đầu tư bằng ngân sách mà ngày càng có nhiều cá nhân, DN thuộc các thành phần kinh tế, các hội nghề nghiệp, các tổ chức xã hội; ngoài ra các cơ quan đoàn thể khác tham gia đầu tư vào lĩnh vực này (Liên đoàn Lao động, Hội phụ nữ, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của
người tàn tật, Hội bảo trợ trẻ em tàn tật…). Có thể thấy mạng lưới dạy nghề ở thành phố qua [phụ lục 7].
Thành phố có khoảng 320 cơ sở dạy nghề, trong đó có 229 cơ sở đào tạo ngoài công lập, chiếm 71,6%. Trong năm 2006, thành phố đã tuyển 321.225 học viên tham gia vào các trường và cơ sở dạy nghề. Trong đó, học viên hệ dài hạn là 30.327 người; hệ ngắn hạn là 290.898 người. Số lượng học viên sau đào tạo tham gia vào các hoạt động kinh tế là 43%. Trong năm 2007, TP.Hồ Chí Minh mở thêm 50 cơ sở đào tạo dạy nghề mới, trong đó đầu tư nâng cấp 4 trường dạy nghề lên CĐ với tổng kinh phí hàng trăm tỷ đồng.
Về cơ cấu nghành nghề đào tạo : trong những năm qua, nhiều ngành nghề và hình thức đào tạo đã được bổ sung, đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú của NLĐ cũng như thực tế sản xuất kinh doanh. Ngoài các ngành nghề truyền thống thì
thành phố cũng đã chú trọng đào tạo những ngành trong lĩnh vực công nghệ mới, trình độ cao, các nghề trong lĩnh vực dịch vụ cũng phát triển mạnh như : kỹ thuật máy tính, lập trình hệ thống, thiết kế đồ họa trên máy vi tính, cơ điện tử – điều khiển tự động, thiết kế thời trang, nghiệp vụ tài xế taxi, bán hàng, kỹ thuật đàm phán hợp đồng, thẩm mỹ, các dịch vụ du lịch, làm vườn cây cảnh, kỹ thuật chất dẻo, kiểm tra chất lượng thực phẩm, sữa chữa thiết bị viễn thông, quản lý nhà cao tầng…
Về hình thức đào tạo : ngoài hình thức đào tạo tập trung theo kế hoạch thì nhiều hình thức mới được tổ chức : đào tạo tại chức với công nhân đang làm việc; đào đào tại xí nghiệp; đào tạo có địa chỉ (cơ sở dạy nghề tuyển sinh đào tạo và cung cấp lao động theo “đơn đặt hàng” của DN); bồi dưỡng nâng bậc thợ; đào tạo theo chế độ “môđun” và liên thông giữa đào tạo ngắn hạn và dài hạn; đào tạo bổ sung tay nghề thực hành cho cho học sinh tốt nghiệp trung cấp để lấy bằng CNKT; đào tạo theo phương thức hợp đồng sử dụng bản quyền về chương trình, kiểm tra đánh giá và cấp bằng nước ngoài.
Về đào tạo lao động kỹ thuật trình độ cao : thành phố là một trung tâm kinh tế, khoa học, kỹ thuật phát triển mạnh nhất so với cả nước, do đó, nhu cầu về lao động
kỹ thuật trình độ cao rất lớn. Trước tình hình đó, các cơ sở dạy nghề đã chủ động phát triển mô hình đào tạo lao động trình độ cao nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của thành phố. Thực tế, bên cạnh các trường ĐH, CĐ thuộc khối kỹ thuật, các cơ sở dạy nghề đã tham gia có hiệu quả lĩnh vực đào tạo này.
Bảng 2.13 : Các nghành nghề đào tạo
Lĩnh vực đào tạo | Số cơ sở dạy nghề tham gia đào tạo |
Điện tử ( công nghiệp và dân dụng ) | 26 |
Công nghệ thông tin (lập trình, quản trị mạng, đồ họa) | 34 |
Điện công nghiệp, dân dụng | 46 |
Cơ khí chính xác (CAD, CAM, CNC) | 10 |
Công nghệ ô tô | 17 |
Cơ điện tử | 7 |
Hàn công nghệ cao | 14 |
Thiết bị viễn thông | 9 |
Kỹ thuật chất dẻo | 3 |
Hóa chất (thực phẩm, mỹ phẩm, công nghiệp khác) | 4 |
Nguồn : Sở lao động – thương binh và xã hội
Đội ngũ giáo viên
Đến năm 2006, toàn thành phố có 5.353 giáo viên tham gia dạy nghề, trong đó có 3.749 giáo viên cơ hữu. Ngoài số được đào tạo chính quy đảm nhận vai trò cơ hữu tại các cơ sở, giáo viên dạy nghề còn được huy động từ nhiều nguồn, bao gồm các CNKT tay nghề cao, nhân viên nghiệp vụ có trình độ và kinh nghiệm sản xuất, các giảng viên các trường ĐH, CĐ, các viện nghiên cứu…thực hiện chiến lược phát triển đội ngũ giáo viên dạy nghề, đổi mới phương pháp giảng dạy, ngành thường xuyên phối hợp với các đơn vị có chức năng tổ chức các lớp bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, bồi dưỡng tin học, các lớp chuyên đề về kỹ thuật mới; hợp tác với trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM để chuẩn hóa sư phạm cho giáo viên. Đến cuối năm 2006, tỷ lệ giáo viên dạy nghề đạt chuẩn 83%.
2.1.5.2 Những chủ trương, chính sách của thành phố về đầu tư phát triển nguồn nhân lực những năm qua
Trong những năm qua, thành phố cũng đã quan tâm phát triển NNL bằng một số chương trình, chính sách :
- Chương trình đào tạo 300 thạc sĩ, tiến sĩ giai đoạn 2001 – 2006 ở nước ngoài bằng ngân sách.
Chương trình đã có 254 học viên được đưa đi đào tạo tại 14 quốc gia có nền Giáo dục phát triển như Anh, Mỹ, Úc, Pháp, Nhật... Số học viên của chương trình hoàn thành học tập và nhận công tác là 160. Trong đó có 9 học viên được học bổng toàn phần đào tạo tiếp bậc tiến sỹ, 38 người (chiếm 23,75%) được bố trí chức vụ trưởng, phó phòng hoặc tương đương. Đối tượng của chương trình nên là những cán bộ đã công tác 1 - 2 năm, có kinh nghiệm thực tiễn, đã gắn bó với một đơn vị nhất định. Tuy nhiên, chương trình chưa thu hút được nhiều học viên giỏi; số lượng học viên các ngành KH - CN còn thấp (đặc biệt là các ngành KH - CN mũi nhọn); việc chọn cơ sở đào tạo còn dàn trải; việc bố trí và quản lý học viên sau đào tạo còn nhiều khó khăn.
Giai đoạn 2007 – 2010, thành phố đã tiếp tục thực hiện chương trình đào tạo 500 thạc sỹ, tiến sĩ nhằm mục tiêu đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý cho hệ thống chính trị, cán bộ khoa học các ngành khoa học và công nghệ mũi nhọn cho thành phố bằng ngân sách.
Trong đào tạo nghề, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ thuật ngày càng tăng nhanh, bên cạnh hệ thống đào tạo nghề công lập, thành phố đã khuyến khích phát triển các cơ sở dạy nghề ngoài công lập bằng nhiều chính sách, trong đó biện pháp được xem là có tác động tích cực đến sự phát triển hệ thống dạy nghề đó là : thực hiện chương trình cho vay vốn ưu đãi đối với các cơ sở DN hoạt động trong lĩnh vực đào tạo nghề theo phương thức : Nhà nước trả lãi vay, cơ sở DN thông qua kết quả hoạt động của mình để trả vốn vay, trong thời hạn trung bình từ 7 - 10 năm. Từ năm 2001 đến
năm 2005, tổng nguồn lực tài chính cho dạy nghề của các cơ sở DN trực thuộc thành phố ước khoảng 1.243 tỷ, trong đó kinh phí ngoài ngân sách là 967 tỷ (chiếm 77,80%).
Bên cạnh đó, thành phố chủ động hợp tác, liên kết đào tạo cùng các DN, nhằm khai thác khả năng của một số trường có uy tín, nhất là các trường Trung ương đóng trên địa bàn và các ngành nghề vốn là thế mạnh của các trường này nhằm tăng số lượng công nhân lành nghề để cung ứng cho thị trường. Chương trình đào tạo có nội dung, quá trình học tập sản xuất gắn với năng lực thực tế của nhà trường và nhu cầu của DN, được tiếp cận với công nghệ hiện đại, phù hợp với quá trình sản xuất đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động của nhiều DN.
2.2 Một số vấn đề cấp thiết trong việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực TP.HM và nguyên nhân
2.2.1 Một số vấn đề cấp thiết đặt ra
Với vị thế là đô thị lớn của Việt Nam, TP.HCM có vị trí chính trị quan trọng trong nước, là một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, KH - CN, đầu mối giao lưu quốc tế, đứng đầu cả nước về mức GDP bình quân đầu người, có lợi thế về tiềm năng con người giàu tính năng sáng tạo, đông đảo đội ngũ lao động lành nghề, lực lượng chất xám về khoa học tự nhiên, công nghệ và xã hội nhân văn chiếm tỷ trọng lớn so với cả nước. Bên cạnh đó, TP.HCM có tầng lớp doanh nhân nhạy bén với thị trường, có mối liên hệ và điều kiện, cho phép TP.HCM chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới nhanh, thu hút mạnh đầu tư bên ngoài. Có thể nói, NNL của TP.HCM có thế mạnh nổi trội so với cả nước. Do vậy, việc sử dụng có hiệu quả NNL sẽ giúp thành phố phát triển kinh tế bền vững, đồng thời nhanh chóng vươn lên ngang tầm với các thành phố lớn khác trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, hiện thành phố đang phải đối mặt với nhiều vấn đề lớn về NNL, đó là :
◆ Thứ nhất : Trình độ học vấn và tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của thành phố mặc dù khá cao so với cả nước nhưng vẫn còn rất thấp so với yêu cầu phát triển kinh tế và so với mặt bằng chung của các nước trong khu vực. Số lao động qua đào
tạo chiếm 54,21% (lao động chân tay là 45,79%), trong đó, sơ cấp và CNKT không bằng chiếm 26,13%; lao động có bằng cấp chỉ chiếm 28,08%. Ơ những nước phát triển thì tỷ lệ giữa lao động có trình độ CMKT và lao động chân tay là : 72% và 28%.Với tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn thấp như vậy thì rõ ràng đây là khó khăn lớn nhất cho thành phố trong việc phát triển, còn một khoảng cách rất xa để thành phố có thể thực hiện mục tiêu tiến vào nền kinh tế tri thức. Đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập WTO, sự cạnh trạnh diễn ra khốc liệt hơn trên phạm vi rộng và sâu hơn ở mọi góc độ, mọi ngành nghề và lĩnh vực với nhiều quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh hơn rất nhiều. Trong sự cạnh tranh đó, thành phố nói riêng và Việt Nam nói chung cần phải vượt qua được rất nhiều khó khăn, nhưng có thể thấy khó khăn lớn nhất là ở NNL. Trong khi phần lớn các quốc gia trong tổ chức này đều có một đội ngũ lao động hơn hẳn chúng ta về số lượng và chất lượng, do vậy, để có thể tồn tại được, bắt buộc trước hết, thành phố cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng NNL mà thể hiện đầu tiên là phải nâng cao tỷ lê lao động đã qua đào tạo, ít nhất là ngang hoặc phải cao hơn tỷ lệ chung của các nước khác. Có như vậy mới có cơ hội để khẳng định và thành công trong quá trình hội nhập và hoàn thành được mục tiêu mà thành phố đã đề ra trong chiến lược phát triển đến năm 2020.
◆ Thứ hai : Chất lượng lao động đã qua đào tạo của thành phố không cao. Có thể thấy đây là vấn đề nổi cộm nhất. Một thực tế đáng lo ngại đang diễn ra phổ biến ở thành phố nói riêng cũng như cả nước nói chung, đó là tình trạng NLĐ sau khi tốt nghiệp các cơ sở đào tạo (đặc biệt là sinh viên tốt nghiệp các trường ĐH, CĐ, THCN) không thể đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng chuyên môn cho nhà tuyển dụng ngay tại vị trí công việc theo đúng chuyên ngành đã học. Theo số liệu của Bộ GD ĐT (được khảo sát từ đề tài trọng điểm cấp Bộ do trường ĐH Sư Phạm TP.HCM thực hiện) công bố tại Hội nghị toàn quốc chất lượng giáo dục ĐH diễn ra tại TP.HCM vào ngày 5/1/2008 thì hơn 50% sinh viên tốt nghiệp các trường CĐ, ĐH đều phải được nhà tuyển dụng đào tạo lại vì không đáp ứng được yêu cầu chuyên môn. Rõ ràng TP.HCM không nằm ngoài thực trạng đó vì so với cả nước, thành phố là địa phương dẫn đầu về
số lượng cũng như chất lượng giáo dục ĐH, là nơi tập trung hầu hết những trường ĐH, CĐ uy tín hàng đầu của Việt Nam. Tình trạng này vừa gây sự lãng phí rất lớn cho xã hội về chi phí đào tạo, về thời gian và cơ hội nghề nghiệp. Tại hội thảo “Kết nối thông tin và việc làm” diễn ra trong khuôn khổ Sàn giao dịch việc làm TP.HCM vào ngày 7/06/2008 với sự tham dự của 14 trường đào tạo nghề, 28 đơn vị tuyển dụng lao động đã nêu lên một thực trạng chung : hầu hết các DN sử dụng lao động đều cho rằng lao động “tốt nghiệp” từ các địa chỉ đạo tào nghề từ Sơ cấp đến ĐH đều không làm được việc đúng với nhu cầu chuyên môn vì chương trình đào tạo không đúng với “điều cần của DN”. Nhiều sinh viên ra trường không đáp ứng được công việc đúng chuyên môn đào tạo. Sàn giao dịch việc làm phiên thứ 3, năm 2008 TP. Hồ Chí Minh diễn ra liên tiếp 2 ngày 7 và 8/06/2008 ở 2 địa điểm Nhà Thiếu nhi Thủ Đức và Trung tâm giới thiệu việc làm thành phố cũng góp phần cho thấy rõ tình hình này. Tổng cộng tham gia Sàn giao dịch việc làm lần này có 112 DN bằng đàm phán trực tiếp và đàm phán online, với nhu cầu là 20.000 lao động trong các ngành : Quản lý kinh tế, Ngân hàng, Tài chính, Thương mại, Marketing, Luật, Phiên dịch, Xuất nhập khẩu, Công nghệ dệt may, Công nghệ thông tin, Cơ khí, Điện – điện tử và CNKT, LĐ phổ thông các ngành : Hóa chất, Thủy sản, Dệt may, Thực phẩm, Môi trường, Điện công nghiệp … Nguồn cung cấp LĐ tại Sàn giao dịch việc làm lần này, chủ yếu là sinh viên mới tốt nghiệp của các trường ĐH, CĐ, THCN, các cơ sở dạy nghề trong thành phố và các tỉnh lân cận. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng chỉ có 1.676 LĐ trong tổng số 7.667 LĐ tham gia SGDVL có được việc làm mới. Con số LĐ có việc làm (22%) trong Sàn giao dịch lần này cho thấy NLĐ đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng còn rất thấp. Trong bối cảnh gia nhập WTO, lợi thế NNL không chỉ qua chỉ tiêu số lượng lao động đã qua đào tạo, mà cái quan trọng quyết định nhất đến chất lượng NNL chính là kỹ năng, trình độ chuyên môn được đào tạo của đội ngũ lao động. Con số “%” đã qua đào tạo chỉ nói lên “khả năng” của NNL còn chất lượng của những con số đó mới là cái “thực tế “ mà nhà tuyển dụng cần, là cái DN, xã hội cần, và là cái quyết định cuối cùng đến chất lượng NNL của một quốc gia, vùng, lãnh thổ. Vào WTO, điều này sẽ là một trong những trở
ngại lớn nhất trong quá trình cạnh tranh và đặc biệt là ảnh hưởng đến việc thu hút vốn FDI, một trong những nhân tố cực kỳ quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển của thành phố.
◆ Thứ ba : Có một sự mất cân đối trong cơ cấu NNL, thực trạng thiếu trầm trọng lao động có trình độ THCN và CNKT vẫn chưa được khắc phục và đang có xu hướng ngày càng tăng. Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của thành phố hiện hay giữa CNKT – THCN – CĐ, ĐH là : 2,22 – 0,36 - 1. Theo cơ cấu trên thì cứ 1 lao động trình độ CĐ, ĐH trở lên thì có 0,36 lao động có trình độ trung cấp và 2,22 lao động có trình độ CNKT. Tỷ lệ này cho thấy hiện tượng thầy nhiều hơn thợ, nói lên sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu trình độ lao động trong nền kinh tế giai đoạn tiến bộ kỹ thuật và công nghệ của thành phố hiện nay. Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), đối với những nước đang phát triển, tỷ lệ hợp lý phải là : 40-60 CNKT/ 5-10 THCN /1ĐH hay theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển thì tỷ lệ hợp lý giữa CNKT/THCN
+ CĐ,ĐH là 7/3. Sự mất cân đối về cơ cấu lao động này dẫn đến một nghịch lý mà lâu này chúng ta vẫn thường thấy, đó là lao động tốt nghiệp các trường trung cấp ra trường thì kiếm việc rất nhanh, trong khi đó, lao động tốt nghiệp CĐ, ĐH trở lên thì tỷ lệ thất nghiệp cao. Tuy nhiên, với tình hình đào tạo hiện nay của thành phố thì thực trạng trên vẫn không những giảm xuống mà đang có xu hướng gia tăng trong thời gian tới. Theo thống kê thì năm 2007, quy mô đào tạo cuả thành phố như sau : tỷ lệ lao động trình độ CNKT – THCN - CĐ, ĐH là 1,04 – 0,24 – 1. Như vậy, số lao động có trình độ trung cấp tính trên 1 lao động có trình độ CĐ, ĐH trở lên chỉ còn 0,24 (giảm hơn so với năm 2006), và số lao động có trình độ CNKT là 1,04, cũng thấp hơn so với năm 2006. Điều này cho thấy sự mất cân đối một cách trầm trọng giữa “thầy” và “thợ” đang diễn ra ở TP.HCM theo chiều hướng gia tăng. Một xã hội không thể phát triển nếu chỉ dựa vào những người thầy mà rất cần những người thợ có năng lực thực sự. Theo số liệu của Sở LĐ TB và XH TP.HCM, trong năm 2008, nhu cầu của tuyển dụng mới của các DN trên địa bàn thành phố phân theo trình độ như sau :