Đánh Giá Những Kết Quả Đạt Được, Hạn Chế, Nguyên Nhân Hạn Chế Và Những Vấn Đề Đặt Ra Đối Với Nnl Ngành Du Lịch Tp. Hcm.

53


- Chưa đảm bảo về năng lực ngoại ngữ cho nguồn nhân lực. Kỹ năng ngoại ngữ của nhân lực ngành du lịch chưa tốt phần lớn là do việc tổ chức dạy ngoại ngữ chưa tốt từ bậc học phổ thông đến bậc đại học.

- Các trường ĐH, CĐ chưa chú trọng trang bị cho người học các kỹ năng mềm (kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xử lý tình huống, kỹ năng là việc cá nhân, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản trị toàn cầu, kỹ năng quản trị chuỗi giá trị đặc thù của ngành…).

- Các môn học về kiến thức lịch sử, văn hóa thường bị xem nhẹ hơn môn học chuyên ngành dẫn đến việc sinh viên sau khi tốt nghiệp không am hiểu kiến thức lịch sử, văn hóa của dân tộc mình, các nền văn hóa khác và gặp khó khăn, thiếu tự tin khi hành nghề. Bên cạnh ý thức của người học đối với các môn này chưa cao thì có một nguyên nhân nữa là do phương pháp giảng dạy chưa phù hợp, nội dung dàn trải.

Nhìn chung, các cơ sở đào tạo về du lịch đã đóng góp quan trọng trong việc PTNNL du lịch và cung cấp lao động cho một số ngành khác của TP; trong đó đã cung cấp một lực lượng lao động lớn được đào tạo cơ bản về kiến thức chuyên ngành, nghiệp vụ, ngoại ngữ và một số kỹ năng làm việc cơ bản. Tuy nhiên so với yêu cầu HNQT và nhu cầu xã hội thì chưa đáp ứng được cần phải tiếp tục đổi mới, cải tiến mạnh mẽ về chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, thiết bị phục vụ giảng dạy, thực hành và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu.

2.2.3.4. Công tác quản lý nhà nước:

Công tác quản lý nhà nước về du lịch thời gian qua đã có những tác động nhất định đến PTNNL du lịch TP, thể hiện qua những điểm sau:

Việc chính quyền TP.HCM xác định du lịch là một trong 9 nhóm dịch vụ lợi thế cần tập trung phát triển trong thời gian tới và ban hành chỉ thị 07 - NQ/TU về phát triển du lịch đã định hướng cho du lịch TP phát triển cũng như tác động tích cực đến NNLTP.

Tuy nhiên, các giải pháp chưa đủ tác động làm thay đổi mạnh về chất lượng, số lượng và cơ cấu của nhân lực du lịch TP do triển khai manh mún, rời rạc. Chỉ có định hướng chung mà không có đề án, kế hoạch chuyên đề nhằm phát triển nhân lực du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại và HNQT dẫn đến phát triển tự phát, không đảm bảo cơ cấu, chất lượng, vừa thừa vừa thiếu; mặt khác, du lịch cũng không phải là chuyên ngành

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

54


Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch thành phố Hồ Chí Minh trong hội nhập quốc tế - 12

dược đưa vào danh mục các ngành mà TP cần đào tạo bằng nguồn vốn ngân sách, cụ thể là không có tên trong danh mục ngành thuộc chương trình Đào tạo 300, 500 thạc sĩ, tiến sĩ của TP, công chức ngành du lịch tham gia chương trình 300, 500 thạc sĩ, tiến sĩ của TP phải chọn học chuyên ngành quản lí công, thương mại...theo danh mục mà không được học chuyên sâu về du lịch; du lịch cũng không thuộc ngành được TP ban hành kế hoạch nhánh trong chương trình trọng điểm PTNNL của TP.

Bên cạnh đó, những qui định ràng buộc về tuyển dụng công chức, viên chức, chính sách tiền lương do trung ương ban hành chưa phù hợp làm cho cơ quan quản lý nhà nước về du lịch không tuyển dụng được người có kinh nghiệm xuất thân từ các doanh nghiệp du lịch hoặc các trường đào tạo về du lịch (phải thi tuyển và hưởng mức tiền lương thấp).

Tác động từ những bất cập trong công tác quản lý nhà nước làm cho NNLDL hiện tại nhiều nhưng chưa đảm bảo chất lượng, vừa thừa vừa thiếu, cơ cấu không cân đối, không đáp ứng được nhu cầu hội nhập.

2.2.3.5. Khoa học công nghệ:

Thời gian qua, sự phát triển công nghệ đã có những tác động tích cực đến phát triển du lịch, quản trị và nhân lực du lịch TP. Cụ thể như:

- Các doanh nghiệp du lịch đẩy mạnh quảng cáo qua internet, quảng cáo bằng trang tin điện tử của doanh nghiệp, sử dụng giao diện phù hợp với điện thoại thông minh để dễ dàng tương tác với du khách, giới thiệu dịch vụ, đặt chỗ, cung cấp thông tin khuyến mãi, tiếp nhận ý kiến của khách, thanh toán qua mạng…

Hầu hết các công ty lữ hành lớn như Tổng công ty du lịch Sài Gòn, Vietravel, Vietnamtourism, đều tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt dộng kinh doanh du lịch như thông qua trang tin điện tử của doanh nghiệp giới thiệu các sản phẩm, có thông tin cụ thể về thời điểm giá cả, các dịch vụ với trang thông tin điện tử giới thiệu nhiều sản phẩm sẵn có của công ty cho khách. Nhiều doanh nghiệp ứng dụng các phần mềm công nghệ trong điều hành tour, bán tour trực tuyến, đặt chỗ trực tuyến, quản lý khách đi – đến. Có một số công ty kinh doanh trực tuyến trên địa bàn như Ivivu.com, chudu24.com, gotadi.com. Tham gia vào các nền tảng công nghệ như bán tour, đặt chỗ phòng, vé máy bay… trên booking.com, Agoda, Traveloka, Expedia, Nhiều nhà trọ tư nhân đã tham gia vào mạng lưới cung cấp chỗ nghỉ AirBnb. Một dự án khởi nghiệp kết nối giữa du khách và hướng dẫn viên toàn thế giới của TP.HCM đã

55


nhận được nguồn vốn đầu tư từ một nhà đầu tư nước ngoài. Hiện nay, dự án đã triển khai thực hiện với tên gọi Triip.me.

- Sự phát triển của công nghệ và đặc biệt là công nghệ thông tin đã tác động và làm thay đổi hành vi của khách du lịch, thay đổi cách quản trị của doanh nghiệp du lịch, từ đó đặt ra những yêu cầu mới đối với nhân lực như: phải biết sử dụng máy tính, công nghệ thông tin và biết tiếng Anh; biết sử dụng các phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực lữ hành, khách sạn, nhà hàng; cần thiết có nhân viên am hiểu về e-marketing du lịch, nhân viên có kỹ năng khai thác công nghệ thông tin nhằm thu thập và phân tích thông tin để có chiến lược kinh doanh với các sản phẩm phù hợp, ưu thế.

2.3.3.6. Tác động của HNQT:

Giai đoạn nghiên cứu của đề tài cũng chính là giai đoạn nước ta thúc đẩy hội nhập về kinh tế và HNQT toàn diện. Hiện nay, ngành du lịch nước ta đã có những thỏa thuận quan trọng về du lịch khi tham gia vào WTO. Việt Nam cũng đã tham gia vào nhiều tổ chức du lịch quốc tế. Trong khu vực ASEAN, các Bộ trưởng phụ trách về Du lịch của các nước ASEAN đã ký kết thỏa thuận Thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về Nghề Du lịch, đây là thỏa thuận có ảnh hưởng sâu sắc, mạnh mẽ đến NNL và PTNNL du lịch của cả nước và đặc biệt là ở TP.HCM. Thỏa thuận này đã tác động đến khung tiêu chuẩn đối với một số nghề du lịch; thái độ và đạo đức nghề nghiệp được chú trọng, tính chuyên nghiệp và khả năng ngoại ngữ là những yếu tố cần thiết. Sự dịch chuyển lao động trong khu vực mở ra thị trưởng lao động rộng hơn cho lao động du lịch Việt Nam, đồng thời cũng cung cấp thêm cho thị trường lao động TP đội ngũ chuyên gia, lao động lành nghề mà TP đang thiếu nhưng cũng tạo ra sự cạnh tranh lớn về NNL trong ngành.

Quá trình HNQT đã có những tác động quan trọng đến du lịch và NNLDL TP. Có thể nêu một số tác động của HNQT đến NNLDL TP trong thời gian nghiên cứu, cụ thể là:

Một là, tác động và làm gia tăng về mặt số lượng:

- HNQT thời gian qua đã làm gia tăng lượng khách quốc tế (từ nhiều quốc gia) tới tham quan, nghỉ dưỡng và làm việc tại TP; thị trường khách du lịch quốc tế mở rộng chính là tiền đề quan trọng làm gia tăng nhu cầu lao động và từ đó làm gia tăng quy mô NNL.

56


- Thu hút các nguồn vốn, trong đó có nguồn vốn nước ngoài đầu tư vào du lịch, phát triển các khách sạn - nhà hàng, khu vui chơi, giải trí, mua sắm … từ đó thu hút ngày càng nhiều lao động phục vụ trong ngành du lịch.

Hai là, tác động đến chất lượng NNLDL xuất phát từ yêu cầu phải đảm bảo chuẩn dịch vụ theo quy ước quốc tế:

- Được tiếp cận với tiêu chuẩn quốc tế về quản trị, về dịch vụ thông qua các doanh nghiệp khách sạn cao cấp và các dự án nước ngoài hỗ trợ cho du lịch, cho NNLDL Việt Nam như Dự án Du lịch có trách nhiệm với môi trường và xã hội do Liên minh Châu Âu tài trợ, các dự án của Luxembourg…

- Đặc biệt khi Thỏa thuận ASEAN về tự do luân chuyển NNL ngành du lịch giữa các nước trong khu vực Đông Nam Á được triển khai thực hiện, NNL ngành du lịch TP được tiếp cận với các tiêu chuẩn chung về kỹ năng nghề du lịch của ASEAN, đây là cơ hội để nâng cao trình dộ nhân lực du lịch TP.

- Hợp tác quốc tế trong GDĐT đã giúp cho sinh viên và nhân lực du lịch TP có cơ hội được đào tạo, nâng cao kiến thức bằng các chương trình đào tạo của nước ngoài, có cơ hội được tham gia các chương trình trao đổi sinh viên, thực tập, giao lưu trao đổi về nghề nghiệp với sinh viên, giảng viên nước ngoài.

- Các cơ sở đào tạo có điều kiện để tiếp thu các chương trình đào tạo du lịch mới, tiên tiến, đạt chuẩn quốc tế của các trường trên thế giới; hợp tác trong đào tạo, trao đổi giảng viên, giáo viên, tiếp nhận học bổng; được hỗ trợ thiết bị thực hành…

- TP cũng tiếp nhận một số lượng khá đông nhân lực tốt nghiệp về du lịch được đào tạo nước ngoài về Việt Nam làm việc, chủ yếu trong lĩnh vực nhà hàng, khách sạn, bổ sung cho NNLDL TP.

- Sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong quản lý hoặc đầu tư kinh doanh tại TP.HCM đã tạo động lực cải cách mạnh mẽ trong nội thân doanh nghiệp du lịch TP nhằm tăng sức cạnh tranh, giữ được thị phần.

Ba là, HNQT cũng đặt ra những yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực, cụ thể

như:

- Yêu cầu về kỹ năng ngoại ngữ, nhất thiết phải thông thạo ở trình độ giao tiếp

chuyên ngành đối với lao động du lịch nói chung.

57


- Yêu cầu về kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin, biết khai thác hiệu quả internet trong quản lý, thông tin trong nội bộ và bên ngoài, sử dụng mạng xã hội phục vụ cho công việc và gia tiếp.

- Yêu cầu về kỹ năng làm việc trong môi trường quốc tế, kỹ năng giao tiếp với du khách đến từ nhiều quốc gia khác nhau, văn hóa, ngôn ngữ khác nhau…

- Yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp về thái độ làm việc…

Nhìn chung, HNQT đã mang lại nhiều lợi ích cho NNLDL TP trong thời gian qua và là một trong những động lực góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Thành phố.

2.3. Đánh giá những kết quả đạt được, hạn chế, nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đặt ra đối với NNL ngành du lịch TP. HCM.

2.3.1. Những kết quả đạt được

Thời gian qua, NNLDL của TP đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển chung của ngành. Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng cũng tăng thông qua sự quan tâm đầu tư của các cơ quan quản lý nhà nước, các trường, trung tâm đào tạo, các doanh nghiệp và đặc biệt là sự nỗ lực học tập, trau dồi nghề nghiệp của chính người lao động, đặc biệt là đội ngũ quản lý cấp cao và cấp trung. Có thể nêu 5 điểm mạnh trong PTNNL du lịch TP.HCM trong thời gian qua, cụ thể như sau:

1. Tỷ lệ nhân lực được đào tạo, bồi dưỡng có chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc, thông thạo ngoại ngữ ngày càng cao, chất lượng được cải thiện. Số đông lao động có kiến thức, kỹ năng làm việc, yêu nghề.

2. Hệ thống các trường, trung tâm đào tạo NNL ngành du lịch phát triển mạnh với cơ sở vật chất phục vụ cho đào tạo nhân lực của TP tương đối tốt, trang thiết bị tiên tiến; chất lượng đội ngũ giảng viên, giáo viên ngày càng tốt hơn; chương trình, giáo trình mới, cập nhật kiến thức ngoài nước … đã cung cấp được một lực lượng lớn lao động được trang bị kiến thức, kỹ năng nghề cho ngành du lịch TP.

3. Chương trình huấn luyện nội bộ của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp du lịch có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, PTNNL du lịch TP.

4. Sự hợp tác, liên kết trong đào tạo giữa trường với doanh nghiệp, giữa trường của TP với trường nước ngoài đã phát huy được hiệu quả góp phần giúp sinh viên học sinh sau đào tạo nắm vững lý thuyết, thực hành có thể làm việc.

58


5. Các chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho lao động trực tiếp do Sở Du lịch TP.HCM tổ chức đã góp phần trang bị thêm kiến thức, kỹ năng cho nhân lực du lịch TP.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân:

Căn cứ vào yêu cầu NNL trong điều kiện HNQT, qua khảo sát và phân tích đánh giá, tác giả nhận thấy việc PTNNL du lịch TP có 5 hạn chế cơ bản sau:

1. Chất lượng NNL chưa cao, còn nhiều hạn chế so với Tiêu chuẩn VTOS và “Bộ Tiêu chuẩn Năng lực chung ASEAN về Nghề Du lịch”, thể hiện qua những hạn chế về kiến thức nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ, thái độ làm việc, nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu (kiến thức quản lý điều hành, kiến thức hội nhập, năng lực sáng tạo, lãnh đạo, quản lý, quản trị, kinh nghiệm thực tiễn, kỹ năng làm việc độc lập, kỹ năng làm việc nhóm…). Yếu nhất là nhân lực khu vực quản lý nhà nước, kế đến lao động trực tiếp ở các cơ sở kinh doanh khác.

2. NNL hiện tại chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng, chưa cân đối về cơ cấu, tỷ lệ. Cụ thể là thường xuyên thiếu lao động lành nghề, nhân lực làm công tác quản lý cấp phòng và cấp cao, giám sát, cán bộ quản lý nhà nước, giáo viên, giảng viên giỏi, có kinh nghiệm, chuyên gia. Xét về ngoại ngữ, nhân lực sử dụng thành thạo ngoại ngữ trong công việc chiếm tỷ lệ thấp, trong đó đặc biệt thiếu lao động biết các ngoại ngữ khác Tiếng Anh, ít người biết từ hai ngoại ngữ trở lên.

3. Chất lượng đào tạo nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập, trình độ đào tạo chưa tương xứng với bằng cấp. Công tác đào tạo, bồi dưỡng NNLDL chưa gắn sát với yêu cầu của thị trường lao động, có khoảng cách giữa chất lượng đào tạo với yêu cầu nhân lực của các doanh nghiệp du lịch, thiếu kiến thức chuyên môn, kỹ năng và thái độ chưa tốt. Sinh viên tốt nghiệp không áp dụng được kiến thức học vào thực tế, không thể làm việc ngay. Phần lớn các doanh nghiệp du lịch phải đào tạo lại trước khi đưa vào sử dụng, kể cả người được tuyển có đủ bằng cấp.

4. Công tác quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực du lịch còn nhiều hạn chế, không thực hiện được công tác dự báo nhu cầu cung – cầu lao động của ngành; không nắm được các vấn đề liên quan đến tình hình nguồn nhân lực dẫn đến việc không có giải pháp phát triển nhân lực tự phát dẫn đến những bất hợp lý về cơ cấu lao động trong ngành, đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu của thị trường.

59


5. Liên kết quốc tế trong đào tạo còn hạn chế, nhiều liên kết mới dừng ở việc ký hiệp định hợp tác chung, hoạt động liên kết trong và ngoài nước về đào tạo NNLDL của TP còn manh mún, tự phát.

* Nguyên nhân của những hạn chế về NNL ngành du lịch TP. HCM

Một là, trong thời gian qua ngành du lịch TP có sự tăng trưởng nhanh, trong khi đào tạo NNL đòi hỏi phải có những điều kiện và thời gian nhất định, nên đã không theo kịp với tốc độ phát triển của ngành du lịch.

Hai là, công tác quản lý nhà nước đối với PTNNL ngành du lịch trên địa bàn TP còn nhiều bất cập như: chưa có chiến lược PTNNL ngành du lịch dài hạn; hệ thống cơ chế, chính sách, các văn bản, quy định về PTNNL ngành du lịch TP còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho PTNNL ngành du lịch.

Ba là, chương trình đào tạo hiện nay nặng về lý thuyết, kiến thức được trang bị nhiều nhưng chủ yếu là kiến thức chung, thiếu chuyên sâu. Thời lượng và cách thức học thực hành chưa phù hợp, chênh lệch về thời gian học giữa lý thuyết và thực hành rất lớn. Việc trang bị kỹ năng thực hành còn phụ thuộc vào đội ngũ giảng viên, giáo viên và cơ sở vật chất, thiết bị. Thiết bị thực hành cần kinh phí lớn để đầu tư nhất là lĩnh vực nhà hàng khách sạn trong khi các trường khó khăn về kinh phí trang bị thiết bị thực hành. Đội ngũ giảng viên, giáo viên hiện nay còn hạn chế về khả năng giảng dạy kỹ năng thực hành nghề cho sinh viên. Trong khi đó, việc thực tập cũng chưa mang lại kết quả tốt bởi vì thiếu ràng buộc trách nhiệm giữa đơn vị nhận người thực tập với sinh viên đến thực tập, đơn vị thực tập không chịu trách nhiệm về kết quả thực tập của sinh viên. Thời gian thực tập từ 2-4 tháng là không nhiều nhưng lại phụ thuộc vào thái độ của sinh viên, thái độ của đơn vị tiếp nhận và người hướng dẫn, chỉ cần một bên không xem trọng thì kết quả không đạt theo yêu cầu.

Bốn là, ngân sách đầu tư cho PTNNL ngành du lịch còn hạn hẹp, dẫn đến thiếu cơ sở vật chất, thiếu kinh phí cho GDĐT, cũng như đầu tư cho PTNNL ngành du lịch của TP.

Năm là, nhận thức của các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn TP về tầm quan trọng của NNL chưa đầy đủ, dẫn đến chưa đầu tư kinh phí thoả đáng để PTNNL ngành du lịch.

Sáu là, thu nhập của người lao động trong ngành du lịch của TP còn thấp hơn một số ngành nghề khác, dẫn đến sự dịch chuyển lao động từ ngành du lịch sang các

60


ngành nghề khác. Chế độ tiền lương, tiền thưởng và những động lực tinh thần chưa tạo động lực mạnh mẽ khuyến khích người lao động trong ngành du lịch.

Bảy là, do ảnh hưởng của tính mùa vụ du lịch của du lịch, nên các doanh nghiệp có xu hướng thuê lao động có tính chất mùa vụ, dẫn đến chất lượng NNL ngành du lịch không ổn định.

2.3.3. Những vấn đề đặt ra đối với NNLDL TP.HCM:

Trên cơ sở những mặt được và hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực của TP.HCM thời gian qua, tác giả nhận thấy có 5 vấn đề TP cần quan tâm giải quyết để nhân lực ngành du lịch TP đáp ứng được yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn và HNQT hiệu quả.

1- TP thiếu định hướng và giải pháp về PTNNL du lịch

2- Chưa đáp ứng đủ nhân lực về số lượng, cơ cấu và chất lượng . 3- Chất lượng đào tạo chưa cao.

4- Năng lực ngoại ngữ còn hạn chế.

5- Thiếu nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển và yêu cầu HNQT.


Tóm tắt Chương 2

Trên cơ sở phân tích tổng quan phát triển của ngành du lịch TP, chương 2 đã đi sâu phân tích thực trạng PTNNL ngành du lịch TP trên các mặt số lượng, chất lượng, cơ cấu tỷ lệ lao động trong các lĩnh vực của ngành gồm quản lý nhà nước về du lịch, sự nghiệp du lịch và kinh doanh du lịch; các nhân tố ảnh hưởng đến PTNNL gồm sự phát triển kinh tế - xã hội, dân số, giáo dục - đào tạo, công tác quản lý nhà nước, khoa học công nghệ và tác động của HNQT; từ đó rút ra những kết quả đạt được như: tỷ lệ nhân lực được đào tạo, bồi dưỡng có chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng làm việc, thông thạo ngoại ngữ ngày càng cao, chất lượng được cải thiện, hệ thống các trường, trung tâm đào tạo NNL ngành du lịch phát triển mạnh, chất lượng đội ngũ giảng viên, giáo viên ngày càng tốt hơn, chương trình huấn luyện nội bộ của các doanh nghiệp đã góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, PTNNL du lịch TP, sự hợp tác, liên kết trong đào tạo giữa trường với doanh nghiệp, giữa trường của TP với trường nước ngoài đã phát huy được hiệu quả, các chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho lao động trực tiếp do Sở Du lịch TP.HCM tổ chức đã góp phần trang bị thêm kiến

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 21/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí