Cần Triệt Để Đổi Mới Doanh Nghiệp - Khâu Then Chốt Sản Xuất Ra Sản Phẩm Của Nền Kinh Tế Tri Thức Trong Điều Kiện Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế


vọng cơ cấu ngành trong tương lai. Sẽ không phải là các ngành công nghiệp nặng của thời bao cấp mà là các ngành của thời đại kinh tế tri thức, những ngành sản xuất ra thứ của cải có giá trị cao nhất là trí tuệ, đóng vai trò là những ngành công nghiệp then chốt và mũi nhọn. Theo logic đó, việc ưu tiên đầu tư cho giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ sẽ phải được coi là trọng tâm của toàn bộ chiến lược đầu tư - phát triển trong giai đoạn tới. Đổi mới cách tiếp cận chiến lược như trên là khâu đột phá quyết định trong tư duy và trong chiến lược phát triển.

Nhưng đó chỉ mới là một vế, dù là vế trọng tâm, có vai trò định hướng dài hạn của chiến lược phát triển. Xuất phát từ các điều kiện thực tế, không thể không nhận thấy rằng bên cạnh nỗ lực phát triển các ngành công nghệ cao, trong giai đoạn trước mắt, Việt Nam còn phải đương đầu với vấn đề giải quyết việc làm - thất nghiệp - thu nhập của người lao động. Thực trạng việc làm và thu nhập hiện nay của nước ta cho thấy nếu không tập trung giải quyết vấn đề sống còn này thì nền kinh tế tri thức sẽ trở thành một đích đến xa vời. Tỷ lệ thất nghiệp còn cao, xu hướng di chuyển mạnh lao động vào các khu đô thị, thành phố, nguồn vốn đầu tư cho công nghệ cao còn hạn chế, mức thu nhập lao động chưa cao trong khi chi phí đào tạo nghề tăng lên tạo áp lực kinh tế - xã hội ngày càng gay gắt. Trước tình thế đó, phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, cũng có nghĩa là những ngành đòi hỏi tương đối ít vốn, công nghệ - kỹ thuật không cao, phải là hướng ưu tiên về cơ cấu trong giai đoạn trước mắt; tạo tiền đề từng bước đi vào những lĩnh vực công nghệ - kỹ thuật cao, thay thế dần tình trạng gia công với trình độ thấp, xuất khẩu nguyên liệu thô. Như vậy, nếu nhìn bao quát khung chiến lược 10-15 năm của Việt Nam, rõ ràng trong tư duy đột phá, chiến lược cơ cấu “hai tốc độ” hầu như là phương án buộc phải chấp nhận. Nỗ lực tạo việc làm đi liền với việc xây dựng các năng lực phát triển mới theo hướng tri thức và công nghệ hiện đại là hai vế không thể xem nhẹ bên nào của chiến lược đó.

3.4.1.2 Cần triệt để đổi mới doanh nghiệp - khâu then chốt sản xuất ra sản phẩm của nền kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Trong nền kinh tế thị trường thì doanh nghiệp là trọng tâm của nền kinh tế, quyết định sự thành bại, chất lượng phát triển của nền kinh tế. Trong nền kinh tế tri thức, thực tế ở một số nước có nền kinh tế tri thức phát triển cho thấy, doanh nghiệp là chủ thể của quá trình truy cập và có đóng góp quan trọng vào kho tri thức toàn cầu, doanh nghiệp vận dụng tri thức mới vào thực tiễn, tạo ra giá trị mới. Chi phí đầu tư nghiên cứu phát triển của các công ty đa quốc gia trên thế giới chiếm 87% đầu tư cho nghiên cứu phát triển toàn cầu và khối doanh nghiệp Mỹ đầu tư cho nghiên cứu R&D chiếm 67% tổng đầu tư R&D [70]. Vì vậy, phát triển nhanh các doanh nghiệp mới và đổi mới doanh nghiệp là khâu trung tâm


của quá trình đổi mới nền kinh tế theo hướng kinh tế tri thức, cần bảo đảm các điều kiện về thể chế, văn hóa, tinh thần nhằm tạo dựng được một môi trường kinh doanh sôi động, cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng nâng cao tính cạnh tranh dựa vào khả năng sáng tạo và sự đổi mới không ngừng. Lấy việc đổi mới công nghệ làm trọng tâm chỉ đạo việc phát triển, thành lập doanh nghiệp.

Đổi mới công nghệ phải được xem là nhiệm vụ trung tâm của doanh nghiệp khu vực nhà nước, trong thời gian trước mắt, về định hướng quốc gia, những doanh nghiệp này vẫn được xem là đầu tầu và mũi nhọn của nền kinh tế, nên đổi mới công nghệ và tăng cường tính hiệu quả, toàn diện của hệ thống sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, năng lực công nghệ vẫn mang tính quyết định của nền kinh tế. Phấn đấu doanh nghiệp phải trở thành chủ thể chính của hệ thống đổi mới, hướng dẫn doanh nghiệp và các thành phần kinh tế, nhận thấy rằng, để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải hướng vào thị trường, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ, tích cực chuyển giao và ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, tăng lợi ích kinh tế bằng cách dựa vào tiến bộ công nghệ và đổi mới công nghệ trong nước và quốc tế.

Doanh nghiệp nào không đổi mới, làm ăn sẽ không hiệu quả dẫn đến giải thể hay chuyển đổi, sáp nhập. Do đó đổi mới là sự sống còn của doanh nghiệp. Thời đại này là thời đại của công nghệ mới "bùng nổ", tạo rất nhiều cơ hội cho phát triển doanh nghiệp mới hoặc chuyển đổi doanh nghiệp hiện có. Cần thấy rằng đổi mới công nghệ thường đi đôi với sự thay đổi ngành nghề, thay đổi các phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh, gây nhiều rủi ro. Đó cũng là sự phá huỷ cái cũ để xây dựng cái mới. Có thành công hay không trong quá trình đổi mới đó là do năng lực của con người. Cho nên, phải quán triệt thật sâu sắc cả trong nhận thức và hành động một triết lý phát triển mới: năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế bắt nguồn từ năng lực cạnh tranh của nền giáo dục. Các doanh nghiệp phải năng động, linh hoạt, đổi mới theo kịp sự phát triển trên cơ sở làm tốt việc nghiên cứu dự báo thị trường, xây dựng chiến lược đổi mới, chiến lược phát triển của mình; phải rất coi trọng quản lý tri thức, xây dựng năng lực; có quyết định nhanh nhưng thận trọng để tránh rủi ro thường hay xảy ra khi đổi mới. Đến khi không còn sức cạnh tranh, kém hiệu quả mà không thể đổi mới được thì phải chuyển đổi hướng kinh doanh. Cơ hội cho kinh doanh mới ngày nay có rất nhiều đối với những ai năng động sáng tạo. Việc làm được tạo ra do mở rộng sản xuất chỉ là một phần, một phần nữa ngày càng quan trọng đó là do công nghệ mới, sản phẩm mới tạo ra, số người mất việc làm ở chỗ này sẽ tìm được việc ở nơi khác. Nhà nước có chính sách hỗ trợ cho quá trình đổi mới này đó là đào tạo lại nhân lực, xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường....Thực tế ở nước ta những


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

năm gần đây đã xuất hiện khá nhiều doanh nghiệp sử dụng công nghệ mới, trong số đó đáng mừng là sự xuất hiện của rất nhiều doanh nghiệp tư nhân. Tuy vậy, ở trong lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả kinh doanh và dẫn dắt còn chưa cao mặc dù được đầu tư và ưu đãi với những nguồn lực lớn. Còn không ít doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, dựa dẫm vào Nhà nước, không đổi mới vẫn cứ tồn tại, gây thiệt hại cho nền kinh tế không nhỏ. Đó là những trở ngại lớn trên con đường đi tới kinh tế tri thức. Một nguyên nhân quan trọng là do ta còn duy trì quá lâu những hình thái biến tướng của cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải đầu tư vào khoa học công nghệ, để có thể thường xuyên đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm. Tỷ lệ chi phí cho R&D so với doanh thu của các doanh nghiệp nước ta chưa đáng kể, còn ở các nước phát triển nhanh thì thông thường là 6 - 8%, riêng trong các ngành công nghệ cao thì có thể đến 12 - 20%. Cần lưu ý rằng ở hầu hết các nước phát triển nhờ có các doanh nghiệp đã đầu tư rất lớn vào nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ nên các công nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô, công nghệ vật liệu mới,…đã tạo được động lực phát triển rất nhanh trong những thập kỷ qua, và cũng nhờ đó mà rất nhiều doanh nghiệp chỉ trong một, hai thập kỷ từ tay không đã vươn lên vị trí hàng đầu thế giới như Hàn Quốc và Singapore là những ví dụ về quốc gia, cũng như SamSung, Hyundai, Toshiba, … là những ví dụ về doanh nghiệp.

Hỗ trợ tài chính và thuế cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Tập trung hỗ trợ tài chính theo dự án, theo nội dung đổi mới công nghệ; thành lập quỹ đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ; trợ giúp vốn cho việc chuyển giao, ứng dụng các thành tựu công nghệ mới và công nghệ cao. Chính phủ kiểm soát chặt chẽ ngân sách; đặt hàng những công nghệ có chất lượng cao, những thiết bị, sản phẩm liên quan thay vì nhập ngoại. Đối với việc nhập công nghệ và thiết bị tiên tiến mà không thể tìm được ở trong nước thì thực hiện chính sách thuế ưu đãi. Ưu đãi thuế doanh thu đối với thu nhập từ chuyển giao công nghệ, phát triển công nghệ, liên quan đến tư vấn công nghệ, dịch vụ công nghệ... thì có thể được miễn giảm. Trong đó doanh nghiệp ICT và ICT là chìa khoá dẫn đến đổi mới doanh nghiệp và nhanh chóng biến những doanh nghiệp chuyển đổi thành “doanh nghiệp tri thức”, bởi vì:

Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 22

Thứ nhất, ứng dụng ICT giúp doanh nghiệp tiếp cận thông tin về công nghệ và từ đó thấy được những công nghệ nào cần thiết cho mình, công nghệ nào, khâu nào của sản xuất cần cải tạo và đổi mới, dịch chuyển từ công nghệ cũ sang công nghệ mới dễ dàng hơn, ít tốn kém hơn, tự động hoá cao, thay thế lao động thủ công, tăng vượt bậc năng suất lao động, và đặc biệt tạo ra nhiều sản phẩm mới, có tính cạnh tranh cao.


Thứ hai, ứng dụng ICT, doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, trực tiếp giao dịch với các đối tác trong và ngoài nước một cách dễ dàng, thế giới trở nên phẳng và mọi cách trở địa lý dường như không còn. Khách hàng giao dịch thông qua thương mại điện tử, giảm đáng kể chi phí, mở rộng sản xuất.

Thứ ba, ICT giúp cho doanh nghiệp nâng cao trình độ quản lý nhân sự, tài chính, tài sản, quản trị các nguồn lực doanh nghiệp (ERP), tối ưu hoá các quá trình, nhờ đó tăng năng suất lao động, giảm nhân lực, hạ giá thành sản phẩm.

Thứ tư, ứng dụng ICT trở thành nhu cầu hằng ngày của doanh nghiệp, như thức ăn nước uống đối với con người; cung cấp thường xuyên tri thức về công nghệ, về thị trường, về sự cạnh tranh đổi mới khắp nơi trên thế giới, làm tăng vốn trí tuệ của doanh nghiệp, đổi mới tư duy chiến lược của những cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp, nâng cao năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực - đó là những yếu tố cơ bản nhất giúp nâng cao năng lực của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới để phát triển, điều đó phụ thuộc rất nhiều vào mức độ ứng dụng ICT của doanh nghiệp.

Tăng cường hiệu lực của hành lang pháp lý và điều hành nhằm hỗ trợ và nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong khuôn khổ các bước tiến đạt được trong môi trường pháp lý chung cho cả nền kinh tế. Điều này đòi hỏi không chỉ một hệ thống luật pháp ổn định và minh bạch mà còn đòi hỏi cả sự lãnh đạo công bằng và không có bất kỳ một ngoại lệ hay đặc quyền nào. Điều đó cũng có nghĩa là phải xóa bỏ tất cả các cơ chế quan liêu cửa quyền gây cản trở cho sự đổi mới.

Nâng cao tính linh hoạt của thị trường lao động. Quá trình chuyển đổi nhanh chóng từ một nền kinh tế mang nặng tính nông nghiệp sang một nền kinh tế công nghiệp và nay là sang một nền kinh tế dịch vụ, tri thức tạo ra nhu cầu to lớn về một lực lượng lao động có sự linh hoạt cao. Nó đòi hỏi phải nhanh chóng xóa bỏ những quy định hạn chế tính năng động của lực lượng lao động. (Ví dụ: vấn đề hộ khẩu, bảo hiểm y tế, học hành cho trẻ em,…).

Phát triển hiệu quả hệ thống an sinh xã hội. Việc cải cách hệ thống đảm bảo lương hưu và trợ cấp thất nghiệp là rất cần thiết để có thể đảm bảo tái sử dụng lực lượng lao động vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc trưng dụng đội ngũ lao động vốn chưa phải là bộ phận của cơ cấu lao động thông thường, nhất là lực lượng lao động chưa có việc làm ổn định ở khu vực thành thị và trong ngành nông nghiệp. Đây là vấn đề đặc biệt nổi cộm đối với Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trong giai đoạn xây dựng kinh tế tri thức.


Đẩy mạnh sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những biện pháp cần được thực hiện đầu tiên là tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn bằng việc giảm thiểu sự thiên vị đối với các doanh nghiệp nhà nước và khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tất cả các ngành, lĩnh vực kinh tế, nhất là lĩnh vực dịch vụ hiện đại như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, bán buôn, bán lẻ; kinh doanh bất động sản (nhà đất); dịch vụ cảng, hàng hải quốc tế. Những biện pháp này bao gồm việc giảm thiểu những cản trở về mặt quản lý đối với việc thành lập những doanh nghiệp mới và việc cung cấp cho chúng phương tiện tiếp cận với nguồn tài chính, những thông tin về thị trường và kỹ thuật và các kỹ năng kinh doanh.

Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở những ngành công nghệ cao để tạo thành những hạt nhân trong các lĩnh vực công nghệ cao. Chính quyền địa phương cần tạo ra các điều kiện ban đầu cho sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp loại này trên một dải rộng hơn các lĩnh vực công nghệ hiện đại thay vì chỉ tập trung vào công nghệ thông tin như hiện nay.

3.4.2 Giải pháp cho giáo dục và đào tạo

Phải thực hiện cuộc cách mạng trong giáo dục đào tạo, tạo điều xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức. Vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức, do vậy, con người có tri thức là yếu tố quan trọng và quyết định trong phát triển kinh tế tri thức. Hiện tại, chất lượng đào tạo của chúng ta còn thấp, chương trình lạc hậu, trang thiết bị yếu kém; đào tạo thiên về lý thuyết, thiếu thực tế và tính sáng tạo, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, liên kết đào tạo gắn với nhu cầu thực tế còn chưa cao... GS.Đặng Hữu khi nói về kinh tế tri thức ở nước ta đã đưa ra ý kiến: ''Cần thiết tiến hành một cuộc cách mạng trong giáo dục: từ mục tiêu giáo dục đến nội dung, phương pháp và cả hệ thống giáo dục. Đặc biệt, tạo điều kiện để người học ra trường vừa lao động vừa học tập suốt đời''. [14]

Bên cạnh đó, một nền giáo dục đại học và những kỹ năng lao động tốt hơn là hai thành tố quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế tri thức. Nhưng dù đã có những cải tiến quan trọng, thành tựu chung về giáo dục ở nước ta vẫn còn rất thấp, việc cải cách giáo dục càng tiếp tục được đặt ra như là vấn đề quan trọng nhất cho chiến lược phát triển trung và dài hạn. Nguyên nhân chất lượng giáo dục đào tạo hiện nay chưa cao xuất phát từ nhiều yếu tố, nhưng có lẽ một phần là từ tính chất cạnh tranh chưa cao (là một trong những yếu tố động lực cải thiện chất lượng) giữa các cơ sở đào tạo. Hiện nay, đã bắt đầu có những yếu tố cạnh tranh nói trên nhưng yếu tố này chỉ mới xuất hiện và còn yếu. Ngoài ra, những yếu tố khác cản trở chất lượng của hệ thống giáo dục đào tạo là sự đầu tư chưa thỏa đáng


từ ngân sách, là do thiếu sự liên kết giữa đào tạo và thực hành (thiếu sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp), là do sự lạc hậu của chương trình đào tạo….

Như vậy, toàn bộ hệ thống giáo dục đào tạo hiện nay cần phải tiếp tục được cải cách mạnh mẽ hơn nữa trước những đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế, đặc biệt trước yêu cầu phát triển kinh tế tri thức đang đòi hỏi. Mục tiêu đặt ra cho cải cách giáo dục đào tạo, xét từ góc độ nền kinh tế tri thức, là tạo ra nguồn nhân lực được giáo dục và đào tạo để trở nên sáng tạo và có khả năng học hỏi không ngừng trong suốt cả cuộc đời. Điều đó cũng có nghĩa là phải xây dựng một hệ thống giáo dục mới thay cho hệ thống giáo dục lạc hậu (chú trọng học vẹt, bắt chước thuần túy, chạy theo danh vị thay vì tri thức khoa học và tư duy sáng tạo). Để đạt được mục tiêu đổi mới giáo dục nêu trên và cũng phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam đến 2020, cần có những giải pháp sau:

3.4.2.1 Đổi mới trong quản lý giáo dục phù hợp nhu cầu phát triển của kinh tế tri thức

Thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục, thực hiện dần việc bỏ cơ chế Bộ chủ quản đối với các cơ sở giáo dục đại học. Hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách giáo dục; xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục, điều tiết cơ cấu và quy mô giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu của người học và nhân lực chất lượng cao của nền kinh tế tri thức; Thực hiện công khai hoá về chất lượng giáo dục, nguồn lực cho giáo dục và tài chính của các cơ sở giáo dục, thực hiện giám sát xã hội đối với chất lượng và hiệu quả giáo dục; Thực hiện phân cấp quản lý mạnh đối với các địa phương và các cơ sở giáo dục, nhất là đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và đại học; nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm ở các cơ sở đào tạo về nội dung đào tạo, tài chính, nhân sự; Đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện cơ chế một cửa trong toàn bộ hệ thống quản lý giáo dục, tạo ra một cơ chế quản lý gọn nhẹ, hiệu quả và thuận lợi đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế tri thức. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, truyền thông nhằm “tin học hóa” quản lý giáo dục ở các cấp. Hoàn thiện và triển khai tích cực đề án “đổi mới cơ chế tài chính cho giáo dục” nhằm đảm bảo mọi người đều được học hành, huy động ngày càng nhiều hơn và sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực của nhà nước và xã hội để tăng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục phục vụ cho nền kinh tế tri thức.

3.4.2.2 Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo cho phù hợp với nhu cầu phát triển của kinh tế tri thức

Để có những con người, nguồn nhân lực chất lượng cao cho nền kinh tế tri thức thì phải có hệ thống giáo dục gồm những nhà giáo và cán bộ giáo dục cho nền giáo dục hướng tới phát triển kinh tế tri thức. Trước hết, phải có sự cạnh tranh lành mạnh và ý thức


phấn đấu trong đội ngũ nhà giáo, như việc tiến tới thực hiện chế độ hợp đồng thay cho biên chế trong quá trình tuyển dụng và sử dụng các giáo viên; đảm bảo tỷ lệ giáo viên trên lớp, học sinh trên giáo viên, sinh viên trên giảng viên, tiếp tục tăng cường đội ngũ nhà giáo cho các cơ sở giáo dục. Thực hiện đổi mới toàn diện hệ thống đào tạo sư phạm, từ mô hình đào tạo tới nội dung và phương pháp đào tạo nhằm đào tạo đội ngũ giáo viên vững vàng về kiến thức khoa học cơ bản và kỹ năng sư phạm. Phát triển các khoa sư phạm nghề tại các trường đại học kỹ thuật để đào tạo sư phạm nghề cho số sinh viên đã tốt nghiệp các trường này nhằm cung cấp đủ giáo viên cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Đào tạo đa dạng hóa, nâng cao chuẩn trình độ đào tạo cho đội ngũ nhà giáo. Đến năm 2020 có 80% số giáo viên mầm non và 100% số giáo viên tiểu học đạt trình độ từ cao đẳng trở lên; 100% số giáo viên trung học cơ sở và trung học phổ thông đạt trình độ đại học trở lên; 20% số giáo viên ở các trường trung cấp nghề và 35% số giáo viên ở các trường cao đẳng nghề đạt trình độ thạc sỹ trở lên; 80% giảng viên cao đẳng đạt trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó có 15% là tiến sỹ; 100% giảng viên đại học đạt trình độ thạc sỹ trở lên, trong đó có 30% là tiến sỹ.

Tập trung cho một số trường đại học và viện nghiên cứu lớn trong nước, đặc biệt là các đại học theo hướng nghiên cứu đảm nhiệm việc đào tạo số tiến sỹ, với sự tham gia của các giáo sư được mời từ những đại học có uy tín trên thế giới, đào tạo theo ba hình thức là: đào tạo ở trong nước, đào tạo ở nước ngoài và kết hợp đào tạo trong và ngoài nước, nhằm nâng cao cả về số lượng và chất lượng đội ngũ nghiên cứu, đội ngũ giảng viên tiếp thu những thành tựu giáo dục mới của thế giới.

Ban hành, xây dựng, tổ chức đánh giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp, tăng cường các khóa bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên theo các chương trình tiên tiến thông qua các chương trình đào tạo và đào tạo lại, kết hợp nhà trường và những cơ sở nghiên cứu của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn, các chương trình hợp tác với nước ngoài để đáp ứng được nhiệm vụ nhà giáo theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế tri thức.

Thu hút các nhà khoa học nước ngoài có uy tín và kinh nghiệm, các trí thức Việt kiều tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học tại Việt Nam, rà soát, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng lực lượng cán bộ quản lý tận tâm, thạo việc, có năng lực điều hành; xây dựng chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục; có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ quản lý. Khuyến khích các cơ sở giáo dục ký hợp đồng với các nhà giáo, nhà khoa học có uy tín và kinh nghiệm trong và ngoài nước quản lý và điều hành cơ sở giáo dục.


3.4.2.3 Tái cấu trúc hệ thống giáo dục và mở rộng mạng lưới giáo dục phù hợp với nhu cầu phát triển của kinh tế tri thức

Tái cấu trúc cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng đa dạng hóa, chuẩn hóa, bảo đảm tính phân luồng rõ rệt và liên thông sau trung học cơ sở để tạo cơ hội học tập suốt đời cho người học. Mở rộng mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp để đến năm 2020 có thể tiếp nhận 30% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và 30% số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông vào học một ngành nghề và có thể tiếp tục học lên trình độ cao hơn khi có điều kiện.

Phát triển các trường cao đẳng cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các ngành và địa phương. Quy hoạch lại mạng lưới các trường cao đẳng, đại học trên phạm vi toàn quốc và từng vùng kinh tế, đáp ứng nhu cầu nhân lực về quy mô và cơ cấu ngành nghề đào tạo, phục vụ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập quốc tế.

3.4.2.4 Đổi mới chương trình và tài liệu đào tạo

Hiện đại hóa hệ thống giáo trình ở mọi cấp độ để đào tạo những kỹ năng cơ bản đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế tri thức. Bên cạnh những kỹ năng cơ bản, cần phải có những kỹ năng về máy tính và Internet, khả năng suy nghĩ sáng tạo để có thể thích nghi với những yêu cầu của công việc luôn luôn thay đổi.

3.4.2.5 Đổi mới phương pháp dạy, kiểm định và đánh giá chất lượng giáo dục

Thực hiện toàn ngành đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, biến quá trình học tập thành quá trình tự học có hướng dẫn và quản lý của giáo viên. Đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập cho các giáo viên từ mầm non đến giáo dục nghề nghiệp và đại học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy và học. Đến năm 2015 có 80% giáo viên phổ thông, 100% giáo viên, giảng viên các trường dạy nghề, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học sử dụng thành thạo công nghệ thông tin và truyền thông vào dạy học. Tăng cường thanh tra về đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá. Đảm bảo đến năm 2020 có 100% giáo viên, giảng viên từ mầm non đến đại học được đánh giá là áp dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học mới.

Tham gia chương trình đánh giá quốc tế về kết quả học tập của học sinh để chất lượng giáo dục phổ thông được so sánh với các nước trên thế giới. Xây dựng các trung tâm đánh giá kỹ năng nghề, công nhận trình độ của người học, tạo điều kiện cho người lao động được học tập suốt đời và di chuyển trong thị trường việc làm. Xây dựng hệ thống tổ chức kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục và kiểm định các cơ sở giáo dục công lập và

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 05/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí