chóng trên thế giới và trong khu vực, đánh giá tác động mạnh mẽ của nó đến nền kinh tế đang hội nhập mạnh của Việt Nam. Chúng tiến hành điều chỉnh hướng cơ cấu với ý tưởng trung tâm là xây dựng những trung tâm, những thành phố hiện đại và có sức cạnh tranh phát triển cao với khu vực và thế giới theo hướng hiện đại (kinh tế tri thức). Quy hoạch phát triển của Việt Nam phải hướng tới để thực hiện ý tuởng đó. Cho đến nay, trên cơ sở xác định được thế mạnh và mặt yếu của mình thì Việt Nam nên đặt rõ khuôn hình cơ cấu mục tiêu cho nền kinh tế. Đó là cơ cấu Công nghiệp hướng tới Công nghệ cao và Dịch vụ, đẩy tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng cao trong nền kinh tế đến năm 2020 chiếm 85% GDP và định hướng 2030 đạt tỷ lệ 95%-98% GDP (đạt tỷ lệ như những quốc gia phát triển hiện nay và cơ cấu này đã được duy trì trong thời gian dài). Trên cơ sở nông nghiệp dựa vào tri thức ở mức độ cao bởi vì nông nghiệp của Việt Nam có những thế mạnh nhất định và đang đóng vai trò không nhỏ trong cơ cấu phát triển của kinh tế của nước ta. Phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ đóng góp cho GDP là 15% và định hướng 2030 chỉ còn 2%-5%. Cơ cấu này một mặt phát huy thế mạnh sẵn có của Việt Nam, tận dụng được quan hệ phân công lao động và liên kết các vùng kinh tế trọng điểm của ba miền, mặt khác, tạo ra những lợi thế và năng lực cạnh tranh mới dựa trên các tiềm năng hiện có. Nó cũng định hướng tận dụng sức hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ khắp mọi miền đất nước - một thế mạnh riêng có của mình để thúc đây sự phát triển.
Như vậy căn cứ vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam, vào vị thế phát triển phải có trong một nền kinh tế hội nhập theo vùng và toàn cầu mạnh mẽ, có thể đề xuất khuôn hình cơ cấu kinh tế mục tiêu tổng quát của Việt Nam sẽ là : Công nghiệp hướng tới Công nghệ cao và Dịch vụ dựa vào tri thức, nông nghiệp phát triển dựa vào tri thức ở mức độ cao.
Dịch vụ, với vị thế đang vươn lên là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế của khu vực trong điều kiện hội nhập, chắc chắn Việt Nam có (và rất cần có) những thế mạnh của một “nút” hội tụ quốc gia, của một trung tâm giao lưu khu vực và quốc tế lớn. Do vậy, việc nâng cao trình độ, chất lượng các ngành dịch vụ cao cấp đòi hỏi trình độ cao về nguồn nhân lực, tổ chức, quản lý (văn hóa, du lịch, các dịch vụ hạ tầng mềm như tài chính, ngân hàng, viễn thông, bảo hiểm, tư vấn,…) để dịch vụ trở thành một ngành kinh tế trọng điểm trong tương lai đang là một yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với nước ta.
Công nghiệp - Công nghệ cao, hướng tới một nền kinh tế tri thức, Công nghiệp nước ta cần tiếp tục đột phá vào những ngành hàng, sản phẩm sử dụng công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao. Xây dựng, phát triển mạnh những công
viên phần mềm, những trung tâm công nghệ cao, trung tâm công nghệ sinh học, ưu tiên đào tạo chuyên gia công nghệ thông tin và truyền thông, trên thực tế, Việt Nam đang cố gắng và từng bước xác lập một thế phát triển kinh tế “đi trước, đón đầu và vượt bỏ” trong lĩnh vực ICT, công nghệ gen, công nghệ sinh học và công nghệ nano. Đồng thời, phải đẩy mạnh việc sắp xếp lại các cơ sở Công nghiệp hiện có; cải tạo, chuyển hướng sản xuất đối với các cơ sở gây ô nhiễm, kỹ thuật giản đơn, hàm lượng chất xám thấp.
Nông nghiệp phát triển dựa vào tri thức ở mức độ cao, chúng ta có tiềm năng về nông – lâm nghiệp và thủy sản và kinh tế biển ở mức to lớn tuy nhiên hiện nay, những nguồn lực này vẫn còn nhiều ở dạng tiềm năng, chưa khai thác triệt để xuất phát từ việc nông nghiệp dựa trên cơ sở canh tác phần nhiều mang tính truyền thống và lạc hậu, nhân lực và dân số dựa vào nông nghiệp đang chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu dân số và cơ cấu lao động trong khi đóng góp thực trong GDP thì không tương xứng. Điều này xuất phát từ việc nông nghiệp dựa trên tri thức về con giống, về cây trồng, về chiến lược phát triển, vốn, con người… chưa hợp lý, chúng ta chỉ sản xuất và xuất khẩu nguyên liệu thô, năng suất lao động thấp, giá trị gia tăng thấp, tiếp cận thị trường kém và trình độ của người lao động trong khu vực nông nghiệp còn rất thấp, về thủy sản thì chỉ mới là đánh bắt nguồn lợi thủy sản một cách thiếu tổ chức và không bền vững, sơ chế không tạo ra giá trị sản xuất cao. Cải thiện được những yếu kém trên thì chúng ta bước vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới với phương châm kinh tế biển sẽ đóng góp vào 50% GDP sẽ cho ta thấy một tầm vóc mới của nông lâm thủy sản nếu biết dựa vào tri thức.
Gắn với trục cơ cấu kinh tế trọng điểm Bắc-Trung-Nam, với vị trí địa lý nhỏ hẹp và dài của đất nước, chúng ta cần thiết lập mối liên hệ kinh tế chặt chẽ với các vùng kinh tế trọng điểm. Các mối liên hệ này sẽ góp phần quan trọng làm cho chúng ta trở thành một trung tâm phát triển khu vực Đông Nam Á thực sự mạnh. Sự gia tăng mạnh mẽ nhu cầu tiêu thụ của những vùng kinh tế trọng điểm, những đô thị lớn, kéo theo nó là khả năng đáp ứng tăng lên là kết quả tất nhiên của sự phát triển này. Hiện nay, mối liên hệ phát triển kiểu này của các vùng trọng điểm còn chưa sâu và rời rạc. Một nguyên nhân quan trọng là là xu hướng phát triển theo kiểu “tự bảo đảm” của nước ta vẫn còn được duy trì, các quan hệ thị trường lại chưa được phát triển mạnh mẽ theo chiều sâu. Nếu không nhanh chóng phá vỡ tình trạng này, thúc đẩy mở rộng quan hệ phân công và hợp tác vùng mạnh mẽ thì chúng ta khó tập trung chuyên sâu phát triển các ngành công nghệ cao hay dịch vụ hiện đại, kết hợp ngay từ đầu công nghiệp hoá với tri thức hoá để đáp ứng yêu cầu hiện đại hoá.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Hạn Chế Trong Tiếp Cận Và Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam Thời Gian Qua Và Nguyên Nhân
- Những Thuận Lợi, Khó Khăn, Cơ Hội Và Thách Thức Dưới Góc Độ Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Nước Ta Trong Điều Kiện Hội Nhập Quốc Tế
- Tận Dụng Thời Cơ Hội Nhập Quốc Tế, Phát Huy Năng Lực Nội Tại Kết Hợp Với Nguồn Lực Bên Ngoài Cho Phát Triển Kinh Tế Tri Thức
- Cần Triệt Để Đổi Mới Doanh Nghiệp - Khâu Then Chốt Sản Xuất Ra Sản Phẩm Của Nền Kinh Tế Tri Thức Trong Điều Kiện Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Tăng Cường Đầu Tư Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Cho Nền Giáo Dục Tri Thức
- Phát Triển Nền Khoa Học Và Công Nghệ, Đổi Mới Quản Lý Đối Với Khoa Học Và Công Nghệ Của Quốc Gia, Tạo Động Lực Phát Triển Kinh Tế Tri Thức
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Để thực hiện được những bước đi chiến lược nêu trên, chúng ta cần xác định những hướng đi cụ thể sau : (1) Thực hiện phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở kết hợp tuần tự với nhảy vọt, truyền thống với hiện đại; (2) Bắt đầu từ đổi mới hệ thống quản lý, thể chế chính sách, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động khai thác kho tri thức toàn cầu;
(3) Tập trung đào tạo nguồn nhân lực có đủ khả năng tiếp thu, sử dụng tri thức để tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao; (4) Khẩn trương xây dựng năng lực khoa học công nghệ quốc gia và hệ thống đổi mới quốc gia; (5) Sớm xây dựng xã hội thông tin để đổi mới mạnh, phát triển nhanh và bền vững. (6) Tất cả những vấn đề nêu trên đều phụ thuộc vào con người, vào vốn trí tuệ. Do vậy, cần ưu tiên hàng đầu cho việc phát triển con người theo các chuẩn mực và định hướng kinh tế tri thức.
3.3 PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU TIẾP CẬN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 VÀ TẦM NHÌN 2030
3.3.1 Phương hướng tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam
Những yêu cầu đặt ra trong việc xác định mục tiêu phát triển kinh tế tri thức ở nước ta với tiềm năng và vị thế là trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, và giao thương quốc tế, Việt Nam có tiềm năng và sẽ phải là trung tâm kinh tế có trình độ phát triển cao nhất và mang tính dẫn dắt, như một đầu tầu của nền kinh tế khu vực. Do đó những định hướng cơ bản sau nên được tuân thủ:
Một là, đối với công nghiệp và dịch vụ, chúng ta phát triển theo hướng tuần tự và nhẩy vọt, tận dụng cơ sở vật chất và nhân lực hiện có, giải quyết việc làm, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người lao động, không ngừng tiếp thu áp dụng các tri thức mới để đổi mới công nghệ, đổi mới sản xuất kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đã xây dựng mới, là phải sử dụng công nghệ mới nhất mà ta làm chủ được, bên cạnh đó chúng ta không quên hiện đại hoá các ngành truyền thống.
Hai là, đối với cơ khí chế tạo, chúng ta ưu tiên sử dụng công nghệ vât liệu mới, công nghệ kỹ thuật số, chế tạo máy công cụ điều khiển theo chương trình, các dây chuyền thiết bị tự động, các phương tiện vận chuyển hiện đại... giá trị có thể gia tăng nhiều lần, ví dụ thành công cho chuyển đổi này là Viện Máy công cụ và Dụng cụ ( IMI).
Ba là, đối với những ngành dịch vụ như du lịch, thương mại, bưu chính viễn thông, ngân hàng, tài chính,….đây là con gà đẻ trứng vàng, những ngành có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, cần được phát triển, hiện đại hoá nhanh theo kịp điều kiện hội nhập. Phải xem hướng này là hướng chiến lược quan trọng đi nhanh vào kinh tế tri thức. Đổi mới công nghệ, sử dụng công nghệ tiên tiến và hợp lý trong tất cả các lĩnh vực sản xuất
dịch vụ, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp nông thôn...
Bốn là, đối với xây dựng và kết cấu hạ tầng, phải đảm bảo vận dụng tri thức, công nghệ, phương pháp tổ chức quản lý mới nhất đáp ứng yêu cầu đòi hỏi kết cấu hạ tầng cao, thực sự hữu hiệu của nền kinh tế tri thức, nhất là hạ tầng ICT, đối với những ngành tư vấn xây dựng, tư vấn công nghệ,…cũng là khâu quan trọng nhất trong việc vận dụng tri thức mới và đòi hỏi phải được đổi mới nhanh, để thúc đẩy sự phát triển toàn ngành.
Năm là, chuyển trọng tâm phát triển những lĩnh vực quan trọng sang chủ yếu dựa vào tri thức, đây là là hướng phát triển kinh tế dựa vào tri thức và đó là một cuộc đổi mới mạnh mẽ, một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực theo hướng:
Thứ nhất, đổi mới thể chế kinh tế từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường; từ kinh tế hiện vật sang kinh tế giá trị; từ dựa chủ yếu vào tài nguyên sang dựa nhiều hơn vào tri thức, vào công nghệ; chuyển trọng tâm đầu tư từ đầu tư hữu hình sang đầu tư cho phát triển giáo dục, khoa học công nghệ, văn hoá, y tế...
Thứ hai, doanh nghiệp là các chủ thể trung tâm biến tri thức thành giá trị. Doanh nghiệp phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh là nhờ công nghệ mới, tri thức mới. Doanh nghiệp coi vốn tri thức là nguồn lực quan trọng nhất của mình. Sáng chế đẻ ra doanh nghiệp; doanh nghiệp thúc đẩy phát triển hệ thống công nghệ mới.
Thứ ba, cần thiết phải đổi mới trong khoa học và công nghệ, trong đó nghiên cứu phát triển mang tính quyết định nhất trong quá trình sản xuất tạo ra của cải. Việc tạo ra của cải giời đây không những phụ thuộc vào tối ưu những cái đã có mà là do sáng tạo ra cái mới và phần sáng tạo chiếm tỷ trọng cao. Khoa học và công nghệ không còn là một lĩnh vực riêng các nhà khoa học; không còn ranh giới giữa doanh nghiệp và viện nghiên cứu.
Thứ tư, đổi mới về tổ chức quản lý, đổi mới tư duy, tạo môi trường thuận lợi cho yếu tố mới được nhanh chóng tạo ra, trí sáng tạo phát triển, các nhân tố mới được khuyến khích và nhân rộng. Mô hình tổ chức quản lý trong từng đơn vị cũng được đổi mới căn bản để phù hợp yêu cầu phát huy sức sáng tạo, nhân nhanh vốn tri thức; coi trọng việc quản lý tri thức. Việc đổi mới tư duy được xem là yếu tố then chốt nhất cho tất cả những đổi mới nêu trên, từ tư duy về sự phát triển của bộ máy lãnh đạo và quản lý các cấp đến tư duy về cách làm kinh tế thật sự hiệu quả, về cách tiêu dùng văn minh mà tiết kiệm, về lối sống lành mạnh, giàu tính nhân văn của các tầng lớp xã hội... Toàn bộ những đổi mới đó phải thật sự bắt kịp những xu hướng lớn, tiến bộ nhất của thời đại ngày nay trong bối cảnh hộii nhập và toàn cầu hóa.
3.3.2 Những mục tiêu chủ yếu trên con đường tiếp cận và phát triển kinh tế tri thức Việt Nam đến 2020 và tầm nhìn 2030
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 nêu rõ, để phấn đấu đạt được mục tiêu phát triển kinh tế giai đoạn 2010 - 2020, thì phải đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. Vì vậy, phát triển kinh tế tri thức như là một chiến lược tạo lập, rút ngắn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển đất nước cũng tạo tiền đề cho kinh tế tri thức phát triển. Hai mệnh đề này hòa quyện và không thể tách rời của phát triển kinh tế nước ta. Dưới đây là những mục tiêu kinh tế cơ bản giai đoạn 2011 - 2020:
Một là, về kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp, hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, trọng tâm là cơ cấu lại các ngành sản xuất, dịch vụ gắn với các vùng kinh tế; thúc đẩy cơ cấu lại doanh nghiệp và điều chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh hàm lượng nội địa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế.
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7% - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010. GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt 2100USD và năm 2020 gấp 1,7 lần năm 2015 đạt khoảng 3.500 USD. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30% lao động xã hội.
Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 31 - 32% năm 2015 và đạt ít nhất 35% năm 2020; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5% - 3%/năm. Thực hành tiết kiệm trong sử dụng mọi nguồn lực. Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.
Hai là, về văn hóa xã hội, xây dựng xã hội đồng thuận, dân chủ, kỷ cương, công bằng, văn minh. Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình
cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức 1,1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên một vạn dân (1), thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2% - 3%/năm; phúc lợi, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân cư. Xóa nhà ở đơn sơ, tỷ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25m² sàn xây dựng/người. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại. Số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật.
Ba là, về môi trường, cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020, đưa tỷ lệ che phủ rừng lên 45%. Hầu hết dân cư thành thị và nông thôn được sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh. 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh mới áp dụng công nghệ sạch hoặc trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường. Các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung. 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn. Cải thiện và phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm nặng. Hạn chế tác hại của thiên tai. Chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng.
Bốn là, về ICT, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông trong mọi lĩnh vực, khai thác có hiệu quả thông tin và tri thức trong tất cả các ngành. Xây dựng và phát triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, E-Gov, doanh nghiệp điện tử, giao dịch và thương mại điện tử để Việt Nam đạt trình độ khá trong khu vực ASEAN. Hình thành xã hội thông tin, công nghiệp ICT có tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm, đạt tổng doanh thu khoảng 15 tỷ USD.
Cơ sở hạ tầng ICT phát triển mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu trao đổi thông tin của toàn xã hội. Mật độ điện thoại đạt trên 50 máy/100 dân trong đó mật độ điện thoại cố định đạt trên 20 máy/100 dân và mật độ điện thoại di động đạt trên 30 máy/100 dân.
Đào tạo về ICT ở các trường đại học đạt trình độ và chất lượng tiên tiến trong khu vực ASEAN. Đảm bảo 80% sinh viên công nghệ thông tin và truyền thông tốt nghiệp ở các trường đại học đủ khả năng chuyên môn và ngoại ngữ để tham gia thị trường lao động quốc tế. Mục tiêu ICT 2020 và xa hơn nữa đó là, với ICT làm nòng cốt Việt Nam chuyển
đổi nhanh cơ cấu kinh tế - xã hội trở thành một nước có trình độ tiên tiến về phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin.
Tầm nhìn kinh tế tri thức Việt Nam 2030 : xét trên bình diện phát triển kinh tế Việt Nam cứ năm năm thì GDP bình quân đầu người tăng trên gấp đôi, 2004 là 561USD, năm 2009 là 1100 USD, 2010 là 1200 USD. Theo chiến lược phát triển 2010-2020 của chúng ta thì GDP đầu người 2015 là 2100USD, 2020 là 3500 USD tăng gấp ba lần 2010, gấp hơn 6 lần năm 2004. Với đà phát triển như vậy, thêm vào đó là nền tảng phát triển kinh tế tri thức giai đoạn 2011-2020 đã được thiết lập, điều đó cho ta một cái nhìn lạc quan rằng năm 2030, chúng ta sẽ có trình độ phát triển kinh tế tri thức theo kịp Malaysia và Thái Lan, tỷ trọng TFP trong GDP đạt trên 50%, GDP đầu người đạt trên 10.000 USD. Công nghiệp, nông nghiệp phát triển chủ yếu dựa vào công nghệ cao nhất là công nghiệp ICT, Nano, công nghệ vật liệu mới. Về dịch vụ, chúng ta quyết tâm sẽ xây dựng Việt Nam mà cụ thể là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội trở thành một trung tâm tài chính, dịch vụ đạt trình độ cao của khu vực, đuổi kịp những nước có trình độ kinh tế tri thức được đánh giá ở mức khá của thế giới. Mục tiêu tiến tới của chúng ta là đuổi kịp và vượt trình độ phát triển kinh tế tri thức của những nước trong khu vực như Thái Lan và Malaysia. Bước tiếp theo là đuổi kịp và vượt Singapore. Đó là những mục tiêu khó khăn nhưng chúng ta quyết tâm và sẽ đạt được nếu chúng ta bắt tay ngay lập tức và quyết liệt chiến lược phát triển kinh tế tri thức trong giai đoạn 2010-2020 làm động lực phát triển mạnh cho giai đoạn 2020-2030.
3.4 NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TIẾP ĐỂ CẬN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 VÀ TẦM NHÌN 2030
Do tính chất đặc thù của bước chuyển đổi hiện nay của nền kinh tế phải giải quyết hệ nhiệm vụ kép: vừa tiến hành công nghiệp hoá, vừa phải đồng thời từng bước phát triển nền kinh tế tri thức, cho nên các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là rất nhiều và trải ra trên một diện rất rộng. Để thực hiện hiệu quả những quan điểm đã trình bày ở trên, chúng ta cần tập trung thực hiện một số nhóm giải pháp cụ thể như dưới đây:
3.4.1 Nhóm giải pháp về môi trường kinh doanh và hệ thống đổi mới
3.4.1.1 Phát triển môi trường kinh doanh lành mạnh, đổi mới cơ chế chính sách tạo điều kiện và môi trường phát triển cho nền kinh tế tri thức
Chúng ta đã thực hiện một số biện pháp phát triển và đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ theo hướng tạo dựng một nền kinh tế hiện đại. Tuy nhiên, để xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức có nghĩa là phải tạo ra và vận hành một hệ phạm trù với chất
lượng hoàn toàn mới, vận động theo những nguyên tắc, quy luật và cơ chế khác hẳn trước đây. Do vậy, việc lựa chọn định hướng phát triển kinh tế tri thức là mô hình mục tiêu đòi hỏi phải thay đổi căn bản tư duy, cách tiếp cận và chiến lược phát triển. Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố quan trọng nhất là tri thức, nền kinh tế dựa vào tri thức có phát triển được hay không phụ thuộc chủ yếu vào việc thu nhận, tạo ra, quảng bá và sử dụng tri thức có hiệu quả hay không. Chúng ta phải chuyển đổi từ quản lý kinh tế sang quản lý tri thức, nhằm mục tiêu khơi dậy các năng lực sáng tạo, tạo ra tri thức mới, nhân lên vốn tri thức và sử dụng có hiệu quả tri thức, biến nó thành giá trị. Chính từ đây đòi hỏi phải đổi mới hơn nữa hệ thống quản lý, chuyển trọng tâm từ quản lý nguồn lực vật chất - cái hữu hình, sang quản lý lực lượng tinh thần - cái vô hình. Yếu tố đầu vào cơ bản của kinh tế tri thức là công nghệ và vốn tri thức hơn là năng lượng và nguyên liệu. Ở đó, thị trường dần dần không còn khái niệm biên giới, công nghệ thông tin và truyền thông cùng với hạ tầng giao thông tốt tạo điều kiện thuận lợi cho sự di chuyển nguồn nhân lực và việc làm khắp nơi trên thế giới. Với nền kinh tế công nghiệp trước đây, những nhà máy công nghiệp nặng cần đặt gần đường sông, đường sắt, nguồn nguyên liệu, thì trong nền kinh tế tri thức, các doanh nghiệp đặt tại những nơi có nguồn nhân lực được đào tạo tốt, có cơ hội học tập suốt đời, chất lượng cuộc sống được đảm bảo. Vì thế, nếu không chuyển đổi hệ thống quản lý phù hợp với xu thế mới này thì sẽ gây cản trở sự phát triển kinh tế tri thức. Với kinh tế tri thức, bên cạnh những triển vọng mới cho từng người cũng là thách thức cho hệ thống quản lý. Thích nghi với điều kiện đó, chính phủ phải trở nên linh hoạt và thích nghi hơn, phải xây dựng chính phủ điện tử, công dân điện tử để tự đổi mới, để tăng hiệu lực, năng suất và hiệu quả, có trách nhiệm hơn với dân, giải phóng được mọi sức mạnh sáng tạo của dân. Vai trò của nhà nước chuyển từ chỗ là người chỉ huy nền kinh tế sang người kiến trúc sư nền kinh tế mới, chỉ ra mục tiêu, định hướng phát triển, tạo môi trường kinh doanh, động viên mọi lực lượng tham gia; chăm sóc, vun xới các khả năng, tài năng phát triển, nhân nhanh các nhân tố mới.
Cần nhận thức rõ rằng để có cơ hội chiến thắng trong cạnh tranh và đáp ứng tốt các yêu cầu phát triển hiện đại, không thể chỉ dựa vào và chủ yếu dựa vào các lợi thế phát triển truyền thống như tài nguyên hay lao động rẻ (so với khu vực và thế giới). Việt Nam cần phải có một sự lựa chọn mới triệt để: kiên quyết dựa vào và chỉ có thể dựa vào lợi thế phát triển quan trọng số một của thời đại kinh tế tri thức là tiềm lực khoa học, công nghệ cao và nguồn nhân lực trí thức kỹ năng cao. Do vậy, chiến lược phát triển của chúng ta trong giai đoạn tới phải tập trung nỗ lực cho việc tạo dựng và phát triển loại lợi thế này. Sự lựa chọn này cũng có nghĩa là chúng ta cần phải xác lập một cách nhìn mới về triển