Những Thuận Lợi, Khó Khăn, Cơ Hội Và Thách Thức Dưới Góc Độ Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Nước Ta Trong Điều Kiện Hội Nhập Quốc Tế


thức để thực hiện có hiệu quả hơn, chất lượng hơn, nhanh hơn các nhiệm vụ đã đề ra, nhằm đạt được các mục tiêu và phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng. Những năm gần đây, ở nước ta đã xuất hiện nhiều mô hình mới, có thể gọi là mô hình kinh tế dựa vào tri thức, các khu nông nghiệp công nghệ cao, sử dụng công nghệ gen, công nghệ sinh học, các doanh nghiệp dựa vào sáng chế, công nghệ mới, các doanh nghiệp khoa học công nghệ, kinh doanh trên internet, dịch vụ giá trị gia tăng, các doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông... Đó là những bước tiến đầu của kinh tế tri thức, nhưng là những đơn vị biết tiếp thu những tri thức mới, công nghệ mới để đổi mới sản xuất kinh doanh, đem lại hiệu quả rõ rệt. Nêu những dẫn chứng đó để nói lên rằng, chính sách chuyển sang nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế thế giới, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân..., thực sự là động lực cho phát huy mọi năng lực sáng tạo, hướng tới kinh tế tri thức.


CHƯƠNG 3

QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP TIẾP CẬN ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

3.1 NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC DƯỚI GÓC ĐỘ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở NƯỚC TA TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ

3.1.1 Những thuận lợi trong phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Việt Nam có những lợi thế to lớn hiển nhiên để xây dựng và phát triển kinh tế tri thức so với nhiều quốc gia khác trong khu vực. Song nói như thế không có nghĩa là Việt Nam không chứa đựng những bất lợi thế phát triển tiềm tàng, chỉ có điều là khi có quá nhiều lợi thế thì việc nhận ra bất lợi thế có thể trở nên khó hơn. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy nếu không nhận diện chính xác để có giải pháp khắc phục những bất lợi thế, thậm chí cả những lợi thế, sẽ tạo thành những sức cản trở phát triển to lớn.

3.1.1.1 Những thuận lợi về tự nhiên và lịch sử: Đây là những yếu tố mà xét trên quan điểm hiện đại, Việt Nam ngày nay được hưởng như là cái có sẵn, được tự nhiên và lịch sử ban tặng. Nói chung, nước ta có nhiều điểm lợi thế, ở đây, chỉ xin đề cập một số điểm xét thấy cần được nhấn mạnh.

Thứ nhất, lợi thế về địa lý, Việt Nam được coi là vùng đất “địa linh” của khu vực, có chiều dài lịch sử hơn 4000 năm, nhưng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển vào bậc nhất của Việt Nam. Xét trong chiều dài lịch sử, chúng ta luôn là trung tâm phát triển của vùng. Lợi thế địa lý của Việt Nam đã chứa đựng các lợi thế tiềm tàng về kinh tế, văn hóa, xã hội và chính trị, tạo thành một sự kết hợp các lợi thế tiềm năng để kết quả là chúng ta có được lợi thế phát triển tổng thể độc nhất vô nhị của một trung tâm phát triển hàng đầu khu vực và trên thế giới trên mọi phương diện. Xuất phát từ lợi thế địa lý - tự nhiên, trên cơ sở đó, hình thành các lợi thế phát triển lịch sử - xã hội, Việt Nam được chọn một cách tự nhiên như là một đầu mối giao thương quan trọng của khu vực và thế giới, việc này đến lượt nó lại mang lại cho Việt Nam những ưu thế phát triển to lớn khác. Hình

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

3.1 dưới đây cho ta thấy rõ về nhận định trên.

Thứ hai, về lợi thế lịch sử - văn hóa, Việt Nam có những thế mạnh lịch sử - văn hóa tích đọng lại. Dòng lịch sử vốn chứa đựng năng lực nhân văn tiềm tàng. Tuy khó định hình, khó định lượng, song kinh nghiệm phát triển thế giới chứng tỏ yếu tố này là điều kiện xuất phát cơ bản và đặc biệt quan trọng của quá trình tiến lên nền kinh tế tri thức.

Phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế - 19


Năng lực văn hóa - con người tiềm tàng, viêc bắt nhịp vào quá trình phát triển kinh tế tri thức sẽ càng thuận lợi, càng có nhiều cơ hội để đẩy nhanh. Trung Quốc và Ấn Độ hiện đại đang minh chứng cho nhận định này.

Hình 3.1 Các mạng lưới phân công sản xuất lưu thông quốc tế điển hình


Nguồn : http://www.hca.org.vn/home/su_kien/sk_HCA/toan_canh_CNTT/nam2004/ thamluan/3_Nguyen_A_Tuan/download#10

Lợi thế tiềm năng lịch sử này còn có tác dụng nhân bội lợi thế tổ hợp xét theo chiều không gian đã đề cập ở trên. Đây là một trong những yếu tố tạo mặt bằng xuất phát cực kỳ thuận lợi mà nhờ đó, có thể tạo ra sức hấp dẫn và xung lực phát triển mạnh mẽ của chúng ta hiện nay. Cần nói thêm rằng lợi thế có được nhờ sự tập trung thế mạnh quốc gia, do vị thế Đầu tầu trọng điểm phát triển kinh tế của vùng và cả nước cần được nhận diện và định vị rõ ràng theo cách đặt nó vào phạm vi Địa lý - Chính trị - Kinh tế và văn hóa của Việt Nam với tư cách là bộ phận cấu trúc hữu cơ của một không gian phát triển rộng lớn hơn. Vị trí địa lý đặc biệt của nước ta trong bản đồ phát triển của khu vực và thế giới: án ngữ “nút” hải hành tại tuyến hàng hải quan trọng bậc nhất của thế giới hiện tại và tương lai (tuyến đi qua biển Nam Trung Hoa và Thái Bình Dương), nằm tại giao điểm văn hóa Indo

- China, vị thế chiến lược Kinh tế - Chính trị trong khu vực,… cần được coi là một yếu tố làm gia tăng hoặc giảm nhẹ cả mặt lợi thế lẫn bất lợi thế phát triển của Việt Nam. Cách đặt vấn đề ở đây là : Nếu vị thế của Việt Nam theo các tiêu chuẩn như trên là một lợi thế (hay bất lợi thế) phát triển, chúng ta sẽ được hưởng hoặc phải chịu phần lớn những cơ hội và thách thức phát triển phát sinh từ đó. Đây là điểm cần được xem xét kỹ càng trong quá trình nhận diện thế và lực phát triển nói chung cũng như cho việc thiết kế mục tiêu phát triển kinh tế tri thức của nước ta.


3.1.1.2 Các lợi thế hiện tại do quá trình phát triển hiện đại tạo ra (được hiểu là sản phẩm trực tiếp của quá trình phát triển cận hiện đại)

Trước hết, căn cứ vào thực trạng phát triển KT-XH của Việt Nam, có thể nêu ra một số nhận xét về các điều kiện xuất phát hiện tại như sau :

Thứ nhất, mức độ tập trung dân số cao, tuy tình trạng này chứa đựng những thách thức phát triển rất lớn về việc làm, đô thị hóa, điện nước, trường học, bệnh viện, an toàn xã hội…, song trên quan điểm kinh tế học, dễ nhận thấy đây là một lợi thế rất lớn. Đơn giản chỉ vì nhu cầu luôn luôn tạo ra một áp lực phát triển để đáp ứng nhu cầu, định hướng sự phát triển đó, do vậy, là một động lực quyết định sự phát triển nói chung, phát triển kinh tế nói riêng. Theo cách nhìn đó, mức độ tập trung nhu cầu lớn, lại là nhu cầu có chất lượng cao, là động lực đặc thù mà ít quốc gia nào có được. Nó tạo ra sự khuyến khích phát triển mạnh một dải rộng các ngành (hoặc thu hút sự phục vụ phát triển từ các vùng khác), trong đó, đặc biệt là những ngành có năng lực thỏa mãn nhu cầu cao hơn thường đi đôi với trình độ khoa học công nghệ hiện đại.

Thứ hai, mặt bằng xuất phát về kinh tế thuộc loại trung bình khá của khu vực. Nếu xét cụ thể hơn, có thể thấy nền công nghiệp của Việt Nam phát triển khá mới và có cơ cấu kinh tế phát triển tiềm năng. Hai chỉ số liên quan khác không kém quan trọng phản ánh thế và lực kinh tể xuất phát thuận lợi của chúng ta đó là sức thu hút nguồn đầu tư nước ngoài trực tiếp (Năm 2008, FDI đạt 64,011 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 2007, năm 2009 FDI đạt 21,5 tỷ USD, năm 2010 FDI đạt 17,2 tỷ USD trong đó vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD) và thu nhập đầu người không ngừng tăng cao (chạm mức 1200USD/đầu người - 2010).

Cơ cấu kinh tế không ngừng dịch chuyển về công nghiệp và dịch vụ, sức hút đầu tư, nhất là đầu tư nước ngoài trực tiếp và mức thu nhập dân cư tăng với tốc độ cao là những điều kiện then chốt để đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa của Việt Nam. Những điều kiện đó tạo đà cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới, giúp cải tạo nhanh hơn trình độ Công nghệ - Kỹ thuật (nhờ sức thu hút FDI) và năng lực tiết kiệm của Việt Nam trong giai đoạn tới.

Đi kèm với điểm xuất phát về kinh tế này là những thuận lợi do chúng ta có những điều kiện nền tảng tốt hơn về kết cấu hạ tầng, bao gồm cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng “mềm” (các ngành dịch vụ cao cấp như dịch vụ du lịch, tài chính, ngân hàng). Các điều kiện cơ bản cho hoạt động sản xuất, kinh doanh thông thường như điện, nước, giao thông vận tải,… của chúng ta đã và dần được hoàn thiện để đáp ứng được các đòi hỏi phát triển hiện đại và cũng đã có những mặt theo kịp với tốc độ phát triển của khu vực. Hệ thống hạ


tầng kỹ thuật như thông tin viễn thông, mạng điện thoại và mạng kết nối Internet cũng như hệ thống hạ tầng “mềm” như dịch vụ tài chính – ngân hàng của nước ta cũng đạt mức phổ cập rộng hơn và có trình độ nâng cao không ngừng.

Thứ ba, chúng ta có nguồn nhân lực tập trung chất lượng không ngừng nâng cao. Các chỉ số về trình độ học vấn, đào tạo nghề của nguồn nhân lực đang tiến triển khá khả quan. Xét trên quan điểm kinh tế tri thức, chúng ta có những tiền đề tương đối về cơ cấu kinh tế, trình độ công nghệ, hạ tầng cơ sở và nguồn nhân lực có trình độ. Đây là điều kiện tối quan trọng bảo đảm cho chúng ta có khả năng bắt nhịp vào quỹ đạo phát triển kinh tế tri thức một cách thuận lợi hơn.

Thứ tư, ưu thế mở cửa - hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta với thuận lợi là đầu mối giao thương quan trọng của khu vực, chúng ta có những điều kiện xuất phát thuận lợi hơn nhiều trong việc tận dụng các lợi thế phát triển mà thời đại tạo ra và dành cho các nước đi sau. Từ góc nhìn kinh tế tri thức, có thể thấy có hai điều kiện cơ bản để thực hiện hóa lợi thế này tốt hơn. Các kênh “mở cửa” và các mối liên hệ quốc tế rộng rãi cho phép có nhiều cơ hội để tiếp cận dễ dàng hơn đến các điều kiện phát triển quốc tế. Thêm vào đó, trình độ xuất phát về kinh tế, về khoa học công nghệ và nguồn nhân lực lại đảm bảo cho chúng ta sẽ biết lựa chọn cái gì của bên ngoài mà mình cần có để nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển với mức chi phí hợp lý; có khả năng triển khai và vận dụng được chúng vào đời sống sản xuất kinh doanh một cách nhanh chóng.

Trên đây là khái quát một số thế mạnh phản ánh trạng thái xuất phát của Việt Nam từ hệ quy chiếu kinh tế tri thức. Tuy nhiên, những lợi thế này mới chỉ là tiềm năng và được xem xét trong quan hệ so sánh với các nước trong khu vực lân cận của Việt Nam - vùng trũng về kinh tế tri thức của thế giới. Nhận xét này hàm ý rằng việc đánh giá khía cạnh này của lợi thế đặt trên một tiêu chuẩn (mặt bằng) so sánh tương đối thấp. Do vậy, chúng chưa phản ánh hết (và còn xa mới phản ánh hết) thực chất của trạng thái xuất phát về kinh tế của quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức của Việt Nam.

Hai điểm lưu ý trên gợi ra rằng thứ nhất, không nên có ảo tưởng về điều kiện xuất phát của quá trình phát triển. Phải nhìn bằng con mắt lạc quan nhưng thực tế nếu không, sẽ khó có thể xác định nhiệm vụ cần giải quyết để đạt tới nền kinh tế tri thức, do đó, sẽ không thể thiết kế được một chiến lược phát triển đúng đắn cho giai đoạn trung hạn trước mắt. Thứ hai, lợi thế tiềm năng không tự nó chuyển thành hiện thực. Cần phải có hàng loạt các điều kiện hỗ trợ, trong một môi trường lành mạnh và mang tính khuyến khích cao thì quá trình đó mới diễn ra. Mà đây chính lại là mục tiêu khó đạt tới nhất của bất kỳ quá trình phát triển nào.


3.1.2 Những khó khăn bất lợi trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

Xét tổng thể, so sánh với mặt bằng chung của khu vực, Việt Nam rõ ràng có nhiều lợi thế cho điều kiện phát triển. Đây chính là khía cạnh cơ bản của trạng thái xuất phát của quá trình tiến lên nền kinh tế tri thức của chúng ta. Tuy nhiên, một cách khách quan, cần thấy rằng có không ít những yếu tố cản trở, những bất lợi thế đang đặt ra trên lộ trình phát triển của mình. Không chỉ là những yếu tố khách quan mà quan trọng hơn là những yếu kém tự thân bên trong của chính chúng ta, ví dụ như sự yếu kém của hạ tầng cơ sở, trình độ về kỹ thuật thông tin chưa cao, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, trình độ còn ở mức thấp của môi trường kinh doanh thị trường hiện đại…

Mặt khác, nếu chúng ta tiếp cận đến các điều kiện xuất phát của Việt Nam từ một góc độ khác - từ mối quan hệ giữa năng lực thực tế với các yêu cầu mà quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức trong khung cảnh toàn cầu hóa đặt ra - thì điều dễ nhận thấy là chúng ta sẽ phải đổi mặt với một mặt bằng xuất phát về nguyên tắc là không cao, nếu không nói là còn đang ở mức khởi đầu thấp, so với yêu cầu. Mức độ liên kết lỏng lẻo giữa hệ thống công nghiệp với các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, năng lực hỗ trợ nhân, tài, vật lực cho một số hướng nghiên cứu và đào tạo ưu tiên,… là những thực tế không thể bác bỏ và cần phải được giải quyết triệt để.

3.1.3 Những cơ hội để xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

Từ những thập kỷ cuối thế kỷ 20 cho tới nay khoa học và công nghệ đã có những bước phát triển kỳ diệu, đặc biệt là đã xuất hiện cách mạng thông tin, cách mạng tri thức và sự bùng nổ công nghệ cao. Thành tựu nổi bật nhất là sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nanô; đó là những công nghệ cao cơ bản, chúng đang hội tụ với nhau để tạo thành nền tảng cho một hệ thống công nghệ mới của thế kỷ 21, công nghệ của nền kinh tế tri thức. Hệ thống công nghệ mới ấy đang làm biến đổi sâu sắc các quá trình sản xuất, cách thức sản xuất kinh doanh và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội loài người. Đây không chỉ là cách mạng trong kỹ thuật, trong kinh tế mà còn là cách mạng trong các khái niệm, trong tư duy, trong cách sống, cách làm việc, trong các quan hệ xã hội…Đi đôi với quá trình biến đổi lực lượng sản xuất, từ kinh tế công nghiệp chuyển lên nền kinh tế tri thức, là quá trình toàn cầu hóa; và trên thực tế đang hình thành nền kinh tế tri thức toàn cầu. Đó là xu thế phát triển tất yếu khách quan, xu thế ấy lôi cuốn tất cả các quốc gia, không loại trừ ai.


Nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển là nhờ năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo ra tri thức mới, và vận dụng tri thức, biến tri thức thành của cải, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển con người và phát triển xã hội. Tài nguyên là có hạn, năng lực sáng tạo của con người là vô hạn; một khi nền kinh tế dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người, thì khả năng của nền kinh tế của các quốc gia nói chung trong đó có nước ta là hết sức to lớn.

Quá trình các nền kinh tế phát triển tiến tới kinh tế tri thức là một quá trình tự nhiên, hợp qui luật phát triển của lịch sử xã hội loài người, Hội nhập quốc tế, khai thác những ưu thế của kinh tế tri thức toàn cầu để phát triển đất nước, đó là sự lựa chọn khả dĩ nhất đối với các nước đang phát triển.

Tự do hoá thị trường đang tạo tiền đề thuận lợi cho kinh tế thế giới, đặc biệt là thông tin, viễn thông và vận tải, từ đó hình thành một kết cấu hạ tầng toàn cầu thúc đẩy rất mạnh việc điều chỉnh các ngành cũ và phát triển các ngành mới. Hệ thống thông tin toàn cầu tạo cơ hội cho nhiều nước đang phát triển có thể truy cập, khai thác kho tri thức toàn cầu để phát triển nhanh, thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, phát triển một nền kỹ thuật tiên tiến hơn, lại vừa mang lại cho các nước đang phát triển những sản phẩm giá thành thấp hơn nhờ nguồn tài nguyên dồi dào và sức lao động rẻ của các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, việc tiếp thu những luồng văn hóa mới kết hợp với gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng tạo điều kiện xây dựng một xã hội tươi mới hơn trong phát triển xã hội tri thức.

Trong bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập quốc tế, việc có một vị trí địa lý thuận lợi cho giao thương quốc tế cũng là một cơ quý hiếm để chúng ta đẩy nhanh phát triển kinh tế tri thức.

3.1.4 Những thách thức trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế

Bấy nhiêu những cơ hội cũng kéo theo vô số những thách thức khi phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập quốc tế.

Các công ty xuyên quốc gia vừa đem đến cho các nước đang phát triển một nền kỹ thuật tiên tiến hơn, sản phẩm rẻ hơn nhờ nguồn tài nguyên dồi dào và sức lao động rẻ hơn nhưng đồng thời các nước đang phát triển đã phải trả giá đắt cho sự tăng trưởng, chịu nhiều thiệt thòi, nguồn tài nguyên bị cạn kiệt nhanh, môi trường sinh thái ô nhiễm v.v…Các nước đi sau phải có đủ bản lĩnh để có thể vươn lên, sớm tiến kịp các nước đi trước; nếu không đủ bản lĩnh, không chớp lấy thời cơ thì đất nước tụt hậu ngày càng xa hơn, và bị gạt ra ngoài lề.


Toàn cầu hóa cũng đặt ra cho các nước đang phát triển nhiều thách thức tưởng chừng khó vượt qua. Khó khăn không chỉ là về xây dựng năng lực nội sinh, năng lực chính sách, mà còn do sự bất bình đẳng của thiết chế toàn cầu hóa hiện nay. Ngay trong Hiệp định TRIPS (hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ trong quan hệ thương mại). Ví dụ cụ thể về Hiệp định TRIPS bảo vệ chủ yếu cho những chủ sở hữu các giải pháp, họ bán ra với bất cứ giá nào, để có lợi nhuận tối đa, gây khó khăn cho các nước nghèo tiếp cận với các sản phẩm công nghệ cao, nhất là dược phẩm, phần mềm…Các sản phẩm công nghệ cao là những sản phẩm trí tuệ, không giống như các sản phẩm thông thường khác, rất khó xác định giá trị của chúng, qui luật giá trị lao động hầu như không còn phù hợp nữa; thế nhưng các hãng độc quyền bán chúng với giá rất cao. Đối với các nước giàu có thu nhập bình quân đầu người khoảng 30 nghìn USD mua một PC khoảng 500 USD, hệ điều hành Windows một vài trăm USD không đáng là bao, nhưng đối với các nước thu nhập cỡ 600- 1000 USD như Việt Nam thì sẽ gây khó khăn cho vấn đề tiếp cận và phổ biến tri thức.

Trong khi kêu gọi thương mại tự do, thì các cường quốc kinh tế lại gia tăng bảo hộ mậu dịch; với những khoản bảo hộ hàng trăm tỷ USD cho nông nghiệp và một số ngành công nghiệp, công nghiệp chế biến, dựng lên những hàng rào kỹ thuật đã và đang kìm hãm sự phát triển sản xuất ở các nước đang phát triển. Thiết chế toàn cầu hóa hiện nay chắc chắn còn đặt ra nhiều thách thức gay gắt đối với các nước đang phát triển trong việc chia sẻ tri thức toàn cầu vì sự phát triển của mình. Để vượt qua thách thức này phải phát huy năng lực nội sinh, đầu tư mạnh cho phát triển nguồn nhân lực, năng lực khoa học công nghệ, sức mạnh sáng tạo của toàn dân tộc, chọn lựa chiến lược thích hợp, đi tắt, rút ngắn, vượt qua trở ngại, cũng giống như việc sử dụng phần mềm mã nguồn mở đã mở ra lối thoát khỏi sự độc quyền về phần mềm.

Bên cạnh đó, với vị trí thuận lợi cho giao thương và phát triển thương mại quốc tế cũng đòi hỏi một nguồn lực lớn chi tiêu cho quốc phòng để bảo đảm an ninh toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và duy trì vị trí thuận lợi ấy. Ngoài ra, việc giao thương quốc tế cũng dẫn đến những ảnh huởng văn hóa tiêu cực buộc chúng ta phải biết chắt lọc những tinh hoa văn hóa mới bên cạnh việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

3.2 NHỮNG QUAN ĐIỂM CHỦ YẾU ĐỂ TIẾP CẬN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Từ thực tiễn của Việt Nam, thông qua những nghiên cứu, phân tích lý thuyết, để phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế có thể đề xuất hệ quan điểm dưới đây.

3.2.1 Phát triển kinh tế tri thức phải bền vững và đạt được sự đồng thuận

Xem tất cả 232 trang.

Ngày đăng: 05/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí