Nước ta vận dụng và phát triển kinh tế tri thức trong điều kiện cơ cấu kinh tế thị trường và thể chế kinh tế thị trường hình thành chưa đầy đủ. Vì vậy, bước tiến của kinh tế tri thức có thể gặp ít khó khăn hơn về lực cản từ cơ cấu và thể chế kinh tế, công nghiệp truyền thống. Nhưng sẽ gặp khó khăn hơn từ lực cản quán tính cơ cấu bao cấp. Mặt khác, phát triển kinh tế tri thức theo hướng đồng thuận, bền vững lại rất phù hợp với mục tiêu chiến lược trong đường lối của Đảng : "tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường". Đây là một lợi thế cần sớm khai thác để kịp thời nâng cao sức cạnh tranh trong lộ trình hội nhập vào mấy năm sắp tới. Các quan điểm phát triển kinh tế tri thức theo hướng này thể hiện ở những điểm dưới đây.
Thứ nhất, quan điểm hệ thống, phát triển kinh tế tri thức phải trực tiếp thể hiện ở các mục tiêu: Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có tính đến vị trí kinh tế nước ta trong sự kết nối với các vùng kinh tế trọng điểm cả nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải theo hướng phát triển bền vững và có tính đến những tác động môi trường và văn hóa - xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi chất lượng cao của công tác quy hoạch. Chính trong công tác này đòi hỏi tầm nhìn về các quan hệ kinh tế, xã hội hình thành trong giai đoạn kinh tế tri thức. Vì vậy đổi mới công tác quy hoạch theo yêu cầu vận dụng kinh tế tri thức trở thành một mục tiêu của công tác chỉ đạo và quản lý.
Thứ hai, quan điểm cân đối mới, trên cơ sở quy hoạch đã được thông qua, cần phải xây dựng các kế hoạch thực hiện quy hoạch ấy. Quan điểm cân đối mới là vấn đề mang tính đột phá của công tác lập kế hoạch thời kỳ vận dụng kinh tế tri thức. Đó là quan điểm cân đối động dựa trên tri thức trong vận động phát triển chứ không phải cân đối như trong nền kinh tế cũ chỉ dựa trên nguồn vốn đầu tư. Từ quan điểm cân đối mới, đặt ra yêu cầu đổi mới công tác kế hoạch hoá, đây là mục tiêu trong đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý.
Thứ ba, quan điểm mới về tăng trưởng, trong nền kinh tế thị trường hiện đại đang tồn tại một mâu thuẫn giữa hai xu hướng phát triển; Xu hướng phát triển phiến diện kiểu cũ chỉ xoay quanh lợi nhuận và xu hướng phát triển bền vững, đồng thuận giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường. Quan điểm tăng trưởng mới là quan điểm tăng trưởng theo hướng đồng thuận giữa ba mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Hơn nữa còn tạo ra tương tác tích cực giữa ba mặt đó thúc đẩy kiểu phát triển gắn bó giữa quy mô và chất lượng, giữa ổn định và phát triển. Thời kỳ đầu vận dụng quan điểm tăng trưởng mới có thể tỷ lệ tăng trưởng hàng năm chưa cao do các yếu tố chưa phát huy hết hiệu quả của nó, khi đầu tư cho trang thiết bị sản xuất đạt chỉ tiêu bảo vệ môi trường cao thì kéo theo chi phí lớn và hiệu quả thu hồi vốn tức thời sẽ chưa cao. Nhưng khi ba mặt kinh tế, xã hội, môi trường đã phát huy tác dụng tích cực trong tương tác lẫn nhau, biến
những tiến bộ xã hội và môi trường thành động lực tăng trưởng kinh tế, thì lúc đó không những đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao mà còn đạt được sự phát triển trong ổn định xã hội và chính trị. Đó thật sự là môi trường lý tưởng để thu hút đầu tư nước ngoài, để huy động ngày càng nhiều các nguồn lực trong nước.
Thứ tư, quan điểm mới về công bằng, hướng tới công bằng và dân chủ vốn là khát vọng lâu đời của nhân dân lao động. Công bằng vẫn còn là một ước mơ, một hy vọng, mặc dù người ta đã nói quá nhiều đến công bằng trong khi tình trạng bất công ngày càng tăng lên. Công bằng theo quan niệm duy vật lịch sử thì nó là kết quả tổng hợp của sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị. Một kết quả tổng hợp như vậy chỉ có thể có trong thời đại kinh tế tri thức. Trong nấc thang phát triển công bằng ở giai đoạn hiện nay, sự phát triển xã hội, văn hoá, chính trị phải tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển bền vững, tạo ra cơ sở thực hiện công bằng trong kinh tế, từ đó tiến tới thực hiện công bằng xã hội, dân chủ đầy đủ hơn. Đó là mục tiêu khi vận dụng quan điểm mới về công bằng.
3.2.2 Tận dụng thời cơ hội nhập quốc tế, phát huy năng lực nội tại kết hợp với nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế tri thức
Phương hướng cơ bản để thực hiện mô hình phát triển kinh tế tri thức nhằm rút ngắn con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để thực hiện được chủ trương trên, chúng ta phải giải quyết những vấn đề dưới đây:
Có thể bạn quan tâm!
- Những Điểm Sáng Ở Một Số Vùng Miền Phát Triển Kinh Tế Nông Nghiệp Dựa Vào Tri Thức
- Những Hạn Chế Trong Tiếp Cận Và Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Việt Nam Thời Gian Qua Và Nguyên Nhân
- Những Thuận Lợi, Khó Khăn, Cơ Hội Và Thách Thức Dưới Góc Độ Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Ở Nước Ta Trong Điều Kiện Hội Nhập Quốc Tế
- Phương Hướng, Mục Tiêu Tiếp Cận Và Phát Triển Kinh Tế Tri Thức Giai Đoạn 2011 - 2020 Và Tầm Nhìn 2030
- Cần Triệt Để Đổi Mới Doanh Nghiệp - Khâu Then Chốt Sản Xuất Ra Sản Phẩm Của Nền Kinh Tế Tri Thức Trong Điều Kiện Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế
- Tăng Cường Đầu Tư Cơ Sở Vật Chất Kỹ Thuật Cho Nền Giáo Dục Tri Thức
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Thứ nhất, mâu thuẫn luôn phát sinh giữa đổi mới công nghệ khiến cho dư thừa lao động và đào tạo lại lao động, trong đó có nhiều nhân lực không còn phù hợp. Mâu thuẫn giữa lao động và thay đổi công nghệ sẽ được giải quyết bằng cách dùng tri thức mới mở rộng ngành, nghề, đa dạng hoá sản phẩm, tạo việc làm mới. Việc mở rộng sản xuất để tạo việc làm, không phải là dùng công nghệ thâm dụng lao động, mà đó là giải quyết tận dụng lao động bằng cách đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, mở rộng sản xuất; trong một doanh nghiệp, một quá trình sản xuất phụ trợ sử dụng lao động thủ công, không ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản xuất. Bên cạnh đó, phát triển các mặt hàng thủ công mỹ nghệ theo hướng ứng dụng tiến bộ kỹ thuật tạo ra những sản phẩm xuất khẩu năng suất cao và có sức cạnh tranh cao; phát triển các loại hình dịch vụ có chất lượng với đội ngũ nhân lực được chuyên môn hoá, có tay nghề cao; đầu tư đổi mới công nghệ thì phải dùng công nghệ tiên tiến và phù hợp nhất trên cơ sở tận dụng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có.
Thứ hai, phát triển kinh tế tri thức đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và trong mối quan hệ chặt chẽ, hợp lý với các chiến lược khác. Do vậy, việc trước tiên phải tạo lập hệ thống cơ chế, chính sách đồng bộ để giải phóng mạnh mẽ hơn nữa sức sản xuất, sử dụng có hiệu quả các nguồn nội lực, ngoại lực; phát huy lợi thế so sánh của quốc gia,
của từng vùng, địa phương và từng doanh nghiệp, tạo năng lực cạnh tranh mới, sản phẩm chủ lực mới bằng cách áp dụng những thành tựu của kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ hiện đại. Đồng thời phải kết hợp tốt quan hệ hợp tác phát triển đa phương, song phương. Khẳng định rõ hơn vị thế, vai trò và lợi ích của Việt Nam trong khối ASEAN. Nhanh chóng khắc phục những vướng mắc bên trong để rút ngắn quá trình ký kết Hiệp định Thương mại tự do (FTA) với các nước, nhất là với Mỹ, Châu Âu. Củng cố và phát huy lợi thế của thành viên WTO, ngược lại khắc phục những ảnh hược của hội nhập do WTO mang lại.
Thứ Ba, tận dụng tối đa cơ hội hội nhập quốc tế, kết hợp năng lực nội sinh với khai thác yếu tố bên ngoài bằng việc chủ động gắn ứng dụng, phát triển kinh tế tri thức với hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia tích cực vào hệ thống phân công lao động quốc tế; dùng các chính sách ưu đãi mang tính đòn bẩy để thu hút mạnh các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có thế mạnh nhất hiện nay đầu tư vào Việt Nam.
Thứ tư, kinh tế tri thức trong điều kiện hội nhập không thể bỏ qua những kinh nghiệm dân gian,những ngành nghề truyền thống, các làng nghề, các công nghệ truyền thống mà phải phát huy hơn nữa dùng tri thức hiện đại để soi sáng, để cải biến, nâng cao, hướng thẳng vào mục tiêu tăng năng lực cạnh tranh, tạo ra cách tư duy mới, cách làm ăn mới, cách quản lý mới và các sản phẩm mới có giá trị gia tăng cao, kinh nghiệm này có thể lấy Nhật để minh chứng. Việc sản xuất đồ gốm, sứ, phát triển các làng nghề thủ công mỹ nghệ trong những năm gần đây là một ví dụ thực tế cho việc kết hợp giữa truyền thống và hiện đại nêu trên (gốm sứ Bát Tràng, sứ Minh Long,...).
3.2.3 Phát triển kinh tế tri thức để tạo đột phá ở những vùng, miền và ngành nghề trọng điểm có sức ảnh hưởng lớn làm động lực phát triển cho toàn ngành và khu vực
Việc tạo ra những ngành, những vùng trọng điểm mang tính đột phá và có tính ảnh hưởng, mang tính động lực phát triển ở mức độ cao là bước đi phù hợp của chúng ta trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Đứng ở góc độ vùng kinh tế, cần tập trung các nguồn lực cần thiết để ưu tiên phát triển kinh tế tri thức ở những khu, những vùng trọng điểm, những trung tâm phát triển giống cây trồng, trung tâm công nghệ sinh học, trung tâm công nghệ nano, gen, khu công nghệ cao, vành đai nông nghiệp nông thôn dựa vào tri thức làm hậu thuẫn, rồi từ đó làm đầu tầu ứng dụng, lan toả ra các vùng lân cận và mở rộng trong phạm vi toàn cùng miền và cả nước. Những vùng và vành đai này có tác động tương hỗ bổ khuyết về kỹ thuật công nghệ, môi trường và nhân lực cho nhau một cách hài hòa.
Với những ngành kinh tế, chúng ta cần chú trọng phát triển những ngành công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ sinh học, công nghệ nano, ICT, nhanh chóng đưa ICT và các công nghệ cao khác phù hợp vào ứng dụng trong công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, xây dựng nông nghiệp mới dựa trên tri thức, đây là yếu tố hết sức quan trọng để giữ vững ổn định kinh tế, xã hội và tạo động lực đẩy và lan tỏa. Đầu tư thích đáng phát triển những ngành công nghiệp cơ bản, công nghiệp bổ trợ; phát triển mạnh kết cấu hạ tầng liên kết các ngành lớn, then chốt một cách hiệu quả. Phải tăng tốc dịch chuyển một bộ phận lớn lao động từ các ngành năng suất thấp sang các ngành năng suất cao thông qua đào tạo và đào tạo lại, gắn với phát triển các lĩnh vực và ngành mũi nhọn có sức cạnh tranh cao, có khả năng đem lại giá trị gia tăng lớn mang tính đột phá cho nền kinh tế.
Chúng ta không thể đủ lực để có thể đẩy mạnh dàn đều phát triển tất cả các vùng miền, các ngành, do vậy, cần xác định một khoảng cách hợp lý giữa các vùng, các vùng trọng điểm các ngành nhằm có tác dụng thúc đẩy phát triển tương hỗ với nhau. Việc chênh lệch quá lớn giữa các ngành, vùng miền sẽ gây ra mất ổn định. Ở nước ta, phát triển kinh tế tri thức ở nước ta cần tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa đô thị và nông thôn mới dựa trên tri thức, đảm bảo hai khu vực có thể hỗ trợ lẫn nhau, gắn bó với nhau thông qua sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu lao động xã hội.
3.2.4 Phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp hóa hiện đại hóa là hai mục tiêu không tách rời trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
Quan điểm trên cũng hoàn toàn hoàn toàn phù hợp với những tư tưởng khoa học mà K.Marx đã đúc kết: “sự phát triển của lực lượng sản xuất là cơ sở của toàn bộ quá trình phát triển lịch sử; và tiếp theo sự phát triển của các lực lượng sản xuất, các quan hệ sản xuất tất yếu phải thay đổi, rồi sau đó thì diễn ra sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng và tất cả các mặt khác của đời sống xã hội theo chiều hướng tiến bộ”. Quan điểm này cũng đã được nhấn mạnh tại đại hội Đảng X: “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Một lần nữa, văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI, một kỳ đại hội được đánh giá là then chốt cho những bước phát triển tiếp theo của đất nước giai đoạn 2011-2020 đã xác định bối cảnh hội nhập quốc tế và xu thế phát triển kinh tế tri thức trên thế giới và nhấn mạnh, cụ thể hóa hơn nữa mục tiêu : ”Chú trọng phát triển các ngành, lĩnh vực khoa học, công nghệ làm nền tảng cho phát triển kinh tế tri thức, như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ môi trường... Tập trung phát triển sản phẩm công nghệ
cao, có giá trị gia tăng lớn trong một số ngành, lĩnh vực....”; và : Tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Tỷ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30% lao động xã hội. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng đạt ít nhất 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5 - 3%/năm”.
Quan điểm nói trên cần được chấp nhận với tính cách là quan điểm then chốt cho một chiến lược mới về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong những thập kỷ đầu thế kỷ XXI - đó là Chiến lược phát triển kinh tế tri thức. Vấn đề trung tâm của chiến lược mới này là phải thay đổi căn bản cách thức tăng trưởng kinh tế: từ chỗ lệ thuộc vào các yếu tố truyền thống (tài nguyên, đất đai, sức lao động cơ bắp, nguồn vốn) chuyển sang tăng trưởng dựa trên tri thức - những tri thức đã được vật hoá thành các công nghệ mới như ICT, công nghệ nano, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới..., và đã được kết tinh thành công nghệ lãnh đạo và quản lý, công nghệ kinh doanh....
Cần khẳng định rằng, cho đến nay, kinh tế tri thức hoàn toàn không phải là một thứ tư tưởng trừu tượng; trái lại, nó đã trở thành một phương thức phát triển mới của nhân loại, đang và sẽ lan toả rất nhanh cùng với diễn biến của toàn cầu hoá, là xu thế phát triển tất yếu của lịch sử nhân loại. Để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, chúng ta cần phải truy cập vào kho tri thức toàn cầu, học hỏi tri thức của các nước, không phân biệt chế độ chính trị, song lại càng cần phải bám sát thực tiễn trong nước. Thực chất của phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam là đẩy mạnh việc ứng dụng tri thức vào tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, làm tăng tỷ lệ giá trị gia tăng ở từng sản phẩm; giảm chi phí lao động và nguyên vật liệu; tăng chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Như vậy, phát triển kinh tế tri thức nước ta hoàn toàn không phải là theo cơ cấu, cách thức phát triển kinh tế tri thức của các nước đã phát triển, không phải chỉ tập trung vào các công nghệ cao.
Xã hội phải ổn định, lành mạnh và khuyến khích sự sáng tạo mới có thể bước vào kinh tế tri thức. Cần phải đẩy mạnh việc xây dựng các thiết chế dân chủ, tăng cường áp dụng các cơ chế, chính sách khuyến khích con người Việt Nam học cách sáng tạo ra những đột phá công nghệ quan trọng và nhân rộng chúng trong hệ thống doanh nghiệp kiểu mới - những doanh nghiệp sáng tạo. Trong phát triển kinh tế tri thức là nguồn nhân lực chất lượng cao được đào tạo trong một nền giáo dục tiên tiến phải là ưu tiên số một. Nền giáo dục đó phải đào tạo ra những con người năng động, biết khai thác được kho tri
thức toàn cầu, có khả năng biến tri thức thành giá trị, ham mê hiểu biết cái mới, sáng tạo cái mới. Mọi người Việt Nam phải thường xuyên học tập, thích nghi được với sự phát triển ngày càng nhanh của khoa học và công nghệ, xây dựng xã hội học tập, hệ thống giáo dục suốt đời.
Phải tiếp tục đầu tư hơn nữa sự cho nghiên cứu và phát triển, nghiên cứu là hoạt động tạo ra những tri thức mới: phát minh mới, lý thuyết mới, tư duy mới, công nghệ mới, cách làm mới, sản phẩm mới. Theo kinh tế tri thức, thì sự phát triển chính là sự quảng bá, nhân rộng tri thức và công nghệ mới trong các lĩnh vực tạo ra giá trị gia tăng lớn (hiểu theo nghĩa rộng của giá trị), những giá trị mới, là sự sáng tạo cái mới nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống tinh thần và vật chất không ngừng tăng lên của con người. Trong nền kinh tế tri thức, nhiệm vụ chính của nghiên cứu khoa học và công nghệ là tạo ra những cái mới và theo yêu cầu đổi mới, gắn kết một cách chặt chẽ nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ và đưa vào sản phẩm thương mại. Toàn bộ những hoạt động trên sẽ không thể xảy ra, nếu chúng ta thiếu hụt lực lượng lao động có những kỹ năng tương xứng. Vì vậy, để phát triển kinh tế tri thức, phải xây dựng và thực hiện một nguyên tắc mới được kiểm soát bằng những quy định pháp lý minh bạch và nhất quán từ trung ương đến địa phương và trong tất cả các cơ quan, bộ, ngành: Đặt kỹ năng và tri thức của con người vào trung tâm của hệ thống kinh tế - xã hội, của quá trình phát triển. Không đổi mới động lực và các chính sách kinh tế thì khó có thể thực hiện những tư tưởng quan trọng mà Đảng ta đã khẳng định trong văn kiện Đại hội X và văn kiện đại hội Đảng XI.
Công nghiệp hoá hiện đại hóa đi đôi với phát triển kinh tế tri thức là mô hình mà nhiều quốc gia đang theo đuổi, tuy nhiên biện pháp cụ thể tùy thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, xã hội, kinh tế - chính trị...của mỗi nước. Chúng ta, một trong những nước đi sau, không thể lắp lại một cách máy móc mô hình công nghiệp hoá cổ điển và các mô hình khác đã có (ví dụ : công nghiệp nặng và chế tạo máy đi trước một bước), mà phải chủ động chuyển sang mô hình dựa trên tri thức cho công nghiệp hoá hiện đại hóa và không phải là dàn trải mà theo mũi nhọn và lan tỏa. Đây là giải pháp chiến lược then chốt nhất để rút ngắn khoảng cách tụt hậu và chuyển sang cách thức phát triển mới phù hợp với xu thế của thời đại ngày nay.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, phát triển kinh tế tri thức là xu thế và kết quả tất yếu mang đến từ cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nó đã trở thành thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với những đặc trưng mới, không chỉ đơn thuần theo hướng phát triển của kỹ thuật, mà vượt qua kỹ thuật, trở thành lực lượng chủ chốt của tiến bộ sản xuất. Kinh tế tri thức với những sức mạnh đã được kết tinh ở công nghệ nano, ICT, công nghệ
sinh học và những công nghệ cao khác, đã và đang xâm nhập ngày càng rộng và sâu hơn vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội thay đổi hẳn trong nền kinh tế tri thức, trong xã hội tri thức khả năng sáng tạo “giá trị tri thức” sẽ đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nguồn vốn tri thức trở thành nguồn vốn chiến lược, trong đó sản xuất và sử dụng tri thức trở thành trọng tâm, mọi hoạt động đều lấy tri thức làm cơ sở, cốt lõi, mọi của cải đều là tri thức, mọi hành vi kinh tế, lãnh đạo và quản lý đều phụ thuộc vào trí tuệ, tri thức. Các yếu tố truyền thống như vốn, lao động, tài nguyên vẫn là cần thiết nhưng nhường vị trí thứ nhất cho tri thức; “giá trị tri thức” trở thành nền tảng phát triển kinh tế và tích luỹ tư bản; tư liệu sản xuất được nhất thể hoá với sức lao động tri thức, theo đó, nhân tố then chốt trong sản xuất “giá trị tri thức” là tri thức, là kinh nghiệm đúc kết, lượng hóa, năng lực hấp thụ, phát minh ra cái mới.
Tóm lại, với sự xuất hiện của những lực lượng sản xuất mới thể hiện qua vai trò của ICT, công nghệ nano, công nghệ sinh học, và những ngành công nghệ cao khác, những quốc gia có trình độ phát triển cao hiện nay đang bước sang nền kinh tế tri thức. Trạng thái này có sức lan tỏa nhanh chóng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đó là những điểm mà chúng ta cần nắm bắt cơ hội để theo kịp và vượt lên để phát triển.
3.2.5 Mô hình học hỏi và đường lối phát triển
3.2.5.1 Mô hình học hỏi
Từ thực tiễn phát triển của thế giới, kết hợp với thực tiễn trên cơ sở nắm bắt được những điểm mạnh và phát huy, khắc phục những mặt yếu kém thì ta thấy rằng có thể tham khảo một vài mô hình phát triển cho chúng ta. Đó là trường hợp bang Bangalore của Ấn Độ. Cách đây hơn 20 năm, đây vẫn là một địa phương thuộc loại nghèo và lạc hậu nhất của Ấn Độ. Cơ cấu kinh tế chủ đạo của Bangalore lúc đó là nông nghiệp. Tuy nhiên, chỉ trong 20 năm trở lại đây, địa phương này đã trở thành một vùng phát triển cao không chỉ xét theo tiêu chuẩn Ấn Độ mà cả tiêu chuẩn thế giới. Sự phát triển nhanh chóng đến mức thần kỳ dựa vào ngành công nghệ thông tin và truyền thông ở Bangalore là một trong những yếu tố quyết định nhất giúp Ấn Độ trở thành cường quốc tin học hàng đầu trên thế giới.
Bangalore được coi là một trong những ví dụ điển hình nhất của cách thức phát triển nhảy vọt, bỏ qua các giai đoạn Công nghiệp hóa truyền thống để tiến thẳng vào kinh tế tri thức. Từ một điểm xuất phát cực kỳ thấp, dựa vào một số yếu tố hỗ trợ khách quan
như xu thế phát triển của Kinh tế Thế giới, vốn tiếng Anh phổ cập của dân cư, thông quan con đường mở cửa vào thị trường thế giới hiện đại (thị trường Công nghệ cao), tập trung khai thác một lợi thế có lẽ là duy nhất, đó là năng lực trí tuệ của con người, cụ thể là năng lực chế tạo phần mềm, Bangalore đã chọn hướng ưu tiên phát triển duy nhất - nỗ lực tối đa cho mục tiêu phát triển lĩnh vực ICT. Cách tiếp cận thẳng đến kinh tế tri thức này đã thành công. Cơ cấu kinh tế của Bangalore hiện nay là cơ cấu dựa vào Công nghiệp - Công nghệ cao hay Công nghiệp sản xuất tri thức. Với cơ cấu này, nền kinh tế của địa phương thực sự đã được đặt trên quỹ đạo tri thức với một triển vọng sáng sủa. Bên cạnh đó Mô hình phát triển kinh tế tri thức ở nước láng giềng Singapore cũng là một mô hình cho Thành phố học tập và nghiên cứu.
Những điểm đáng lưu ý là Bangalore cũng có xuất phát điểm là nghèo nàn và lạc hậu, kinh tế chủ đạo dựa vào nông nghiệp, điều này cũng khá phù hợp với một số vùng miền của chúng ta. Singapore cũng xuất phát điểm là tài nguyên thiên nhiên không có, Singapore đã lợi dụng vị trí của mình để tạo thành một cổng dịch vụ quốc tế về hành chính, ngân hàng, giao thông và phần mềm máy tính. Với mô hình như Singapore chúng ta có nhiều thành phố, vùng có thể xây dựng được như vậy và thập chí còn thuận lợi hơn nữa như thành phố Hồ Chí Minh, đảo Phú Quốc, Cần Thơ, .....Tuy nhiên, Bangalore hay Singapore chỉ là một bang, một quốc đảo nhỏ, vì thế việc xây dựng những bước đi của một quốc gia với nhiều đặc điểm vùng, khu vực có phần nào giống hai mô hình nêu trên cần một cái nhìn, một chiến lược tổng thể có tính kết nối hệ thống và vận dụng được tiềm lực, những thế mạnh của đất nước, trí thông minh cần cù, chịu khó của con người Việt Nam là một vấn đề không đơn giản nhưng đầy triển vọng.
3.2.5.2 Đường lối phát triển
Trong khi cơ cấu kinh tế hiện tại của Việt Nam được xác định là Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp, tuy nhiên công nghiệp và dịch vụ của chúng ta còn ở giai đoạn phát triển ban đầu trong khi nông nghiệp truyền thống và lạc hậu đang chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế cả về tỷ trọng trong GDP, nhân lực, vật lực trong cơ cấu dân số và cơ cấu lao động. Đây là cơ cấu dựa trên các thế mạnh sẵn có về tiềm lực công nghiệp, về dung lượng và cơ cấu thị trường và mối liên hệ cơ cấu kinh tế mở cửa của Việt Nam với các quốc gia khá và với thế giới. Tuy nhiên, cách lựa chọn hướng phát triển kinh tế của nước ta đã có những thay đổi cơ bản trong thời gian gần đây. Cảm nhận được xu thế chuyển sang nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức và công nghệ cao đang diễn ra nhanh