Kinh Tế Việt Nam Thời Kỳ Thực Dân Pháp Thống Trị

Tiến hành đồng thời với sự nô dịch về chính trị, phong kiến Trung Quốc còn mở rộng hoạt động khai thác bóc lột ở Việt Nam. Hoạt động này biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau mà nội dung của nó còn mang tính chất nô dịch cưỡng bức và phong kiến nông nô.

Trong những hình thức bóc lột bằng cống nạp, phong kiến Trung Quốc còn thực hiện bóc lột thuế, lao dịch ở Việt Nam. Sau khi đặt ách thống trị về danh nghĩa toàn bộ đất đai ở nước ta thuộc về hoàng đế Trung Quốc. Do vậy, người Việt Nam cấy ruộng công phải nộp tô cho chính quyền đô hộ. thời nhà Đường, nhân đinh cày ruộng mỗi năm nộp hai thạch lúa. Thời kỳ phong kiến Trung Quốc nô dịch, hai mặt bằng chủ yếu trong đời sống nhân dân là muối và sắt thì chính quyền đô hộ độc quyền quản lý và đánh thuế. Ngoài ra các mặt hàng thủ công khác cũng bị đánh thuế nặng.

Để thực hiện bóc lột lao dịch, chính quyền đô hộ đã tiến hành kiểm tra dân số ở Việt Nam. Thời nhà Hán theo thống kê của chính quyền đô hộ Âu Lạc có 143.643 hộ với 981.735 nhân khẩu. Người dân Âu Lạc phải đi lao dịch liên miên, xây thành đắp lũy cho chính quyền đô hộ đã ảnh hưởng lớn đến sức sản xuất xã hội.

Ngoài những hình thức bóc lột nói trên, phong kiến Trung Quốc còn thực hiện chính sách chiếm đoạt đất đai lập đồn điền, cướp bắt thợ thủ công giỏi ở nước ta đưa về Trung Quốc, thời nhà Ngô chúng đã bắt hàng nghìn thợ thủ công Việt Nam để phục vụ cho việc xây dựng kinh đô Kiến Nghiệp (Nam Kinh - Trung Quốc).

Như vậy, chính sách nô dịch và bóc lột của phong kiến Trung Quốc là một trở lực lớn trên con đường phát triển của xã hội Việt Nam. Nó tạo nên sự bần cùng phá sản trên quy mô xã hội rộng lớn và sự phân hóa trong xã hội ngày càng rò nét. Trong hoàn cảnh ấy, cuộc đấu tranh của nhân dân ta để bảo tồn nòi giống, để phát triển vẫn mở ra hướng đi lên cho nền kinh tế dân tộc.

* Những chuyển biến của nền kinh tế dân tộc

Thời kỳ phong kiến Trung Quốc đô hộ cũng là thời kỳ xã hội Việt Nam đi vào con đường phong kiến hóa với việc hình thành quan hệ địa chủ nông nô. Sự hình thành ấy diễn ra trong bối cảnh lịch sử khá đặc biệt, nên đã phản ánh cơ cấu kinh tế và cơ cấu giai cấp trong xã hội không thuần nhất.

Về phương diện kinh tế, bên cạnh kinh tế làng xã đã xuất hiện những đồn điền của nhà nước phong kiến ngoại bang và một số trang trại của quan lại địa chủ người Trung Quốc sang sinh cơ lập nghiệp ở Việt Nam.

Về phương diện giai cấp, với tầng lớp địa chủ, bên cạnh tầng lớp quý tộc người Việt đã địa chủ hóa, còn có bọn quan lại địa chủ người hán sang sinh sống ở Việt Nam đã dẫn dần Việt Hóa. Với nông dân lao động, bên cạnh những nông dân người Việt sinh sống trong các làng xã, chịu sự bóc lột của chính quyền đô hộ như thân phận nông nô, còn có những nông nô người hán làm việc trong các đồn điền thực dân đã Việt hóa.

Nhìn chung, sự biến đổi về cơ cấu kinh tế gai cấp, đã phản ánh những đặc thù riêng về con đường phong kiến hóa ở Việt Nam. Quan hệ kinh tế mới hình thành là quan hệ sơ khai phong kiến với những hình thức bóc lột vừa mang tính nô dịch cưỡng bức vừa mang tính chất phong kiến nông nô.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 162 trang tài liệu này.

Thời kỳ phong kiến Trung Quốc đô hộ Việt Nam, cuộc đấu tranh chống áp bức để sinh tồn và phát triển là yếu tố quyết định mở đường cho nông công thương nghiệp có những chuyển biến. Trong nông nghiệp, trồng trọt đã trở thành nguồn sống chủ yếu của con người: kỹ thuật trồng trọt có nhiều tiến bộ. Công cụ sắt và trâu bò cày kéo được sử dụng phổ biến trong canh tác. Hệ thống đê điều được hình thành dọc các con sông lớn vùng đồng bằng bắc bộ và bắc trung bộ. Người dân đã biết dùng phân bón để bón ruộng, biết chiết cành cây để trồng. trải qua quá trình lâu dài trong canh tác, con người Việt Nam đã tiến tới trồng lúa theo hai vụ chiêm mùa. Chăn nuôi gắn bó chặt chẽ với trồng trọt trong hoạt động kinh tế của các gia đình. Ngoài nuôi trâu bò sử dụng trong canh tác, con người còn biết nuôi voi, ngựa để kéo xe và chuyển đồ vật, nuôi lợn, gà sử dụng làm thực phẩm

Với thủ công nghiệp, ngoài các xưởng thủ công nghiệp quan doanh do chính quyền đô hộ trực tiếp quản lý, thì thủ công nghiệp trong nhân dân vẫn tiếp tục phát triển, chủ yếu với tính cách là nghề phụ trong gia đình, nhằm giải quyết những nhu cầu thông thường về ăn, ở, mặc trong nhân dân. Trong quá trình phát triển của thủ công nghiệp, việc giao lưu kinh tế văn hóa với nước ngoài đã làm xuất hiện thêm một số ngành nghề thủ công nghiệp mới bên cạnh những nghề thủ công nghiệp truyền thống

Lịch sử kinh tế quốc dân - 16

Nghề khai mỏ luyện kim có sự phát triển hơn so với thời kỳ trước, vì từ sau công nguyên, nước ta bước vào thời kỳ thịnh đạt của đồ sắt. Các loại công cụ, nông cụ bằng sắt được sử dụng khá phổ biến trong hoạt động kinh tế của nhân dân. Bên cạnh đó các mỏ vàng, bạc, đồng tiếp tục được khai thác phục vụ cho việc sản xuất đồ Mỹ nghệ. Những đồ vật trang sức bằng vàng bạc như vòng, trạm, hạt chuỗi … là những sản phẩm thủ công quý, hàng năm Việt Nam phải cống nạp cho Trung Quốc. Ngoài các loại Mỹ nghệ trên, nghề khảm xà cừ chạm khắc còn cho những sản phẩm quý như khay, cơi, trầu … mà sử sách Trung Quốc phải công nhận là báu vật.

Với nghề gốm, bên cạnh gốm thường còn có gốm tráng men, gốm nửa sành, nửa sứ. Hình loại đồ gốm đa dạng, được trang trí bằng những hoa văn đẹp. trên cơ sở nghề gốm, nghề gạch ngói cũng phát triển, với các loại ngói thường và gạch ngói tráng men được sử dụng vào việc xây dựng thành lũy của chính quyền đô hộ.

Đến thế kỷ III, người Việt Nam đã biết sản xuất các loại giấy như giấy bằng vỏ dó, giấy trầm hương. Riêng giấy trầm hường là sản phẩm quý, vì vậy năm 284 lái buôn La mã đã mua 3 vạn tờ ở Việt Nam để dâng tặng vua Tấn (Trung Quốc) vào thời điểm này, La Mã và cả Châu Âu vẫn chưa biết sản xuất giấy.

Nghề dệt vẫn tiếp tục phát triển, kỹ thuật dệt, nhuộm được cải tiến, nghề dệt đã cho những sản phẩm nổi tiếng như lụa, lĩnh, the, vóc, nhiễu, với màu sắc và họa tiết đẹp. Đó là những sản phẩm mà nước ta phải cống nạp cho Trung Quốc.

Cùng với những nghề thủ công nêu trên, những nghề thủ công khác cũng như nghề nấu đường, nghề mộc, đan lát…. cũng có sự phát triển.

Như vậy, trong thời kỳ phong kiến Trung Quốc đô hộ Việt Nam, thủ công nghiệp vẫn giữ được bản sắc dân tộc bên cạnh đó qua giao lưu kinh tế với người nước ngoài , người Việt Nam đã tiếp thu được kinh nghiệm và kỹ thuật sản xuất mới đa dạng thêm ngành nghề thủ công nghiệp dân tộc.

Một khi sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp có sự phát triển nhất định, nó đã thúc đẩy hoạt động giao lưu trao đổi trong nhân dân, cũng như với người nước ngoài, giao thông vận tải đã góp phần quan trọng trong thúc đẩy quá trình đó, vào khoảng thế kỷ VII - VIII, trên đất nước ta đã hình thành nên mạng lưới giao thông thủy bộ nối liền các vùng trong nước với nhau.

Thời kỳ này sông Hồng đã trở thành đường giao thông có ý nghĩa về kinh tế, văn hóa, quân sự. Đường biển Việt Nam đã trở thành đường hàng hải quốc tế, có thuyền bè nước ngoài đi lại tấp nập. Từ Việt Nam có đường bộ sang Trung Quốc, sang Lào và Thủy Chân Lạp.

Để phục vụ cho hoạt động giao thông vận tải, nhân dân ta đã đóng các loại thuyền, đi lại trên sông biển và dung voi ngựa để vận chuyển đồ vật và kéo xe chở đồ. Giao thông vận tải đã góp phần mở rộng giao lưu trong nước. Thương nghiệp có những chuyển biến đáng chú ý, với việc xuất hiện các chợ địa phương, những trung tâm đổi chác dọc biên giới phí Bắc. Thời kỳ này các châu, quận đã trở thành trung tâm trao đổi của cả nước, nơi đây có nhiều người nước ngoài như Ấn Độ, Ba Tư, Ả Rập… tới trú ngự và buôn bán. Như vậy, mối liên hệ kinh tế giữa các vùng trong nước được tăng cường. Đây là điều kiện cần thiết để nhân dân ta trao đổi với nhau kinh nghiệm

sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở mang một số ngành nghề.

Riêng trong lĩnh vực ngoại thương, chính quyền đô hộ độc quyền nắm giữ và kiểm soát. Do vậy, giao lưu trao đổi giữa người Việt Nam với nước ngoài gặp không ít khó khăn. Tuy Vậy, hoạt động ngoại thương vẫn có các tác động nhất định tới sự phát triển kinh tế trong nước qua việc tiếp thu kinh nghiệm sản xuất của nước ngoài.

Hàng Việt Nam bán ra nước ngoài là các loại làm thổ sản quý, đồ mỹ nghệ… Hàng nhập từ nước ngoài vào Việt Nam thường là thuốc men, đồ sắt…

Như vậy, hàng nghìn năm phong kiến Trung Quốc đô hộ Việt Nam, chính sách nô dịch và bóc lột là một trở lực lớn trên con đường phát triển của xã hội. Tuy vậy, cuộc đấu tranh chống nô dịch và áp bức vẫn mở ra những chuyển biến trong nền kinh tế dân tộc. Xã hội Việt Nam đã đi vào con đường phong kiến hóa, với việc hình thành

chủ nô, nông công thương nghiệp đều có những tiến bộ. Những chuyển biến nêu trên đã tạo điều kiện để kinh tế xã hội cần thiết cho xã hội Việt Nam bước sang thời kỳ lịch sử mới, thời kỳ phong kiến dân tộc tự chủ.

8.2. Kinh tế Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp thống trị

8.2.1. Kinh tế Việt Nam từ khi Pháp xâm lược đến chiến tranh thế giới lần thứ hai

- Chính sách bóc lột của Pháp ở Việt Nam

Cuộc khai thác lần thứ nhất (1858 -1918) tư bản Pháp đã nặng về thương mại, chú trọng xuất cảng hàng hóa hơn là xuất cảng tư bản, Pháp đầu tư vào Việt Nam còn ở mức độ thấp và dè dặt, chủ yếu là để vay nặng lãi. Phương thức kinh doanh của chúng còn rất lạc hậu – theo phương thứ kinh doanh phong kiến.

Cuộc khai thác lần thứ hai từ sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tư bản Pháp đã chú trọng xuất cảng tư bản hơn xuất cảng hàng hóa. Bên cạnh việc tiếp tục cho vay nặng lãi, chúng đã tăng cường khai thác thuộc địa, đầu tư khai thác vào Việt Nam mạnh hơn, phương thức kinh doanh của Pháp lần này đã có sự thay đổi có phần kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa.

Đặc điểm kinh tế thời này là:

+ Nền nông nghiệp hết sức lạc hậu

+ Công nghiệp nhỏ bé què quặt và thủ công nghiệp bị chèn ép

+ Giao thông vận tải thấp kém

+ Thương nghiệp bị Pháp nắm độc quyền

+ Tài chính tiền tệ bị phụ thuộc.

- Kinh tế trong thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ 2 ( 1939 - 1945) Chính sách “kinh tế chỉ huy” của Nhật - Pháp.

Trong thời gian này Nhật thúc ép Pháp phải thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” và biến nền kinh tế nước ta thành nền kinh tế chiến tranh.

Nội dung của chính sách “kinh tế chỉ huy” là kiểm sóat sản xuất, kiểm soát nhập cảng, kiểm soát việc phân phôi hàng hóa và kiểm soát giá cả. Thực chất của chính sách “kinh tế chỉ huy” là tăng cường độc quyền về kinh tế để thu được lợi nhuận tối đa, để cung cấp cho bọn Nhật và để tổng động viên phục vụ thực hiện chiến tranh.

Nền kinh tế thời kỳ này có một số đặc điểm mới

+ Sản xuất nông, công nghiệp phục vụ chiến tranh, vận tải rất khó khăn.

+ Thương nghiệp bị kiểm soát chặt chẽ.

+ Tăng thuế và lạm phát nghiêm trọng.

8.2.3. Kinh tế trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)

Cách mạng tháng 8 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm1945. Nhưng chỉ được 3 tuần lễ sau đó tức là ngày 23 tháng 9 năm 1945 thực dân Pháp quay lại gây hấn ở Nam bộ. Rồi chúng đánh dần ra các nơi

khác. Với tinh thần “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” nhân dân Việt Nam đã tiến hành cuộc kháng chiến chống lại chúng.

Kinh tế trong năm đầu dau cách mạng tháng 8 (1945 - 1946)

* Khẩn trương mở chiến dịch cứu đói.

Đầu năm 1945 ở nươc ta xảy ra một nạn đói khủng khiếp làm cho hơn 2 triệu đồng bào bị thiệt mạng. Chính bọn Pháp, bọn Nhật là kẻ thủ phạm đã gây ra.

Sau cách mạng tháng tám, nạn đói có phần dịu đi do cách mạng phá kho thóc của Pháp, Nhật để chia cho dân và vì vụ chiêm 1945 đã có thêm một số thóc. Nhưng nạn đói không dịu đi hơn mà trở lên trầm trọng, hàng vạn người có nguy cơ bị chết đói

, vì số thóc trên có ít, mà vụ mùa năm 1945 bị thất thu 50% do có trận lụt lớn, làm cho 9 tỷnh ở Bắc bộ vì vỡ đê. Đó là một thử thách to lớn một đe dọa nghiêm trọng đối với sự phát triển của cách mạng.

Do vậy, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, ngày 3 tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ tịch đã đề ra phải khẩn trương mở chiến dịch cứu đói. Đó là một trong hai nhiệm vụ quan trọng của cả nước lúc ấy (cứu đói ở miền Bắc và kháng chiến ở miền Nam).

Để tiền hành cứu đói, nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp trong đó có những biện pháp cấp bách như vận động phong trào nhường cơm sẻ áo, tổ chức cứu đói ở các nơi khuyến khích chở thóc gạo từ Nam ra Bắc, cấm xuất cảng gạo, ngô, đỗ, cấm đầu cơ tích trữ thóc gạo. Ngày 29 tháng11 năm1945 chính phủ lại ra quyết định địa chủ phải giảm tô 25% và xóa bỏ những món nợ lâu đời ở nông thôn. Đồng thời chính phủ cũng đã tiến hành một số biện pháp cơ bản và lâu dài như vận động toàn bộ dân đẩy mạnh tăng gia sản xuất, vận động trồng mầu ngắn ngày ở các nơi chia lại công điền. Ai không sử dụng hết ruộng đất ủy ban nhân dân sẽ cho nông dân mượn để trồng màu. Những quãng đê vỡ đã được hàn khẩu lại, hệ thống nông giang được sửa chữa lại.

Do đó, chỉ trong một thời gian ngắn từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1945 diện tích trồng màu ở Bắc bộ đã tăng lên 3 lần vào năm 1946 sản lượng lúa đã vượt hơn năm 1944 là 38,8%. Nhờ nạn đói đã được chặn đứng chiến dịch cứu đói đã đạt được thắng lợi rực rỡ. Thắng lợi ấy là một kỳ công của chế độ dân chủ nhân dân và đã có tác dụng trọng yếu trong việc củng cố và bảo vệ chính quyền nhân dân.

* Đấu tranh xây dựng một nền tài chính tiền tệ độc lập:

Về tài chính: Trước hết nhà nước kêu gọi sự đóng góp tự nguyện của nhân dân, lập các quỹ quyên góp: quỹ độc lập và “Tuần lễ vàng” Hai quỹ này được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng. Kết quả thu được 20 triệu đồng và 370 kg vàng (bằng số thuế thân và thuế điền thu của cả nước trong 1 năm dưới thời Pháp thuộc). Kết quả đã nói lên lòng kiên quyết giữ vững độc lập của nhân dân ta. Ngoài ác quỹ quyên góp trên

còn có một số hình thức đóng góp tự nguyện khác như “hũ gạo nuôi quân” nuôi dưỡng cán bộ, bộ đội lập quỹ vệ quốc đoàn, đón thương binh về làng.

Những hình thức tài chính đặc biệt dựa vào lòng yêu nước của nhân dân ta mang lại những kết quả đáng kể, góp phần giải quyết những khó khăn về tài chính trong những ngày đầu cách mạng. Nhưng nó cũng có nhược điểm là không thành nghĩa vụ, không ổn định và không công bằng trong việc đóng góp. Do đó Nhà nước đã dần dần quy định sự đóng góp theo chế độ: Đầu tiên là bãi bỏ những thứ thuế nô dịch và bất công do chế độ cũ để lại như thuế đinh, thuế rượu, muối, thuốc phiện,…

Việc bãi bỏ những thứ thuế nô dịch và bất công đó đã có ý nghĩa chính trị rất lớn lao. Nhưng cũng gây lên nhiều khó khăn nhất định cho ngân sách nhà nước. Sau đó Nhà nước đã từng bước xây dựng chế dộ thuế khóa mới: Tiếp tục thu thuế quan vì thuế này còn thể hiện chủ quyền của 1 nước độc lập, thuế đồn điền vẫn tiếp tục thu nhưng giảm đi 20% đổi lại thuế đánh vào lãi thương mại, kĩ nghệ canh nông, lương bổng và thi hành từ 1 tháng1 năm1946.

Đồng thời với việc phải thu, Nhà nước quản lý chi, thực hiện nguyên tắc triệt để chi tiêu hướng vào việc thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản: diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, nhưng đặc biệt là chi phục vụ sản xuất, giảm những chi tiêu không cần thiết, cán bộ lúc đó tình nguyện “cơm nhà việc nước” hay chỉ lĩnh sinh hoạt phí, thực hiện một chính phủ “ít tốn tiền” mà Mác đã nêu ra khi tổng kết xã hội Pari.

Về tiền tệ: Hồi đầu cách mạng, Nhà nước ta chưa có đồng tiền riêng nên thường phải bị động với những thủ đoạn gây rối của bọn Pháp. Do đó chính phủ chủ trương một mặt cho lưu hành giấy bạc Đông Dương trong một thời gian nữa (vì nó là tài sản của nhân dân) mặt khác đã cho chuẩn bị phát hành giấy bạc Việt Nam.

Tiếp đó ngày 31 tháng 1 năm 1946 Chính phủ đã cho phát hành giấy bạc Việt Nam tại miền Nam Trung bộ, từ vĩ tuyên 16 trở vào, vì nơi đây không có quân đội nước ngoài chiếm đóng, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở đây triệt để hơn, các lực lượng phản động bị quét đến tận gốc nên việc phát hành tiền mới không bị phá hại.

Đến ngày 16 tháng 8 năm1946 Chính phủ quyết định mở rộng việc phát hành giấy bạc Việt Nam từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc Trung Bộ.

Và ngày 16 tháng 8 năm1946 trong kỳ họp thứ hai, Quốc hội đã cho phát hành giấy bạc Việt Nam trong toàn quốc, thế là chỉ hơn 1 năm sau cách mạng, nước Việt Nam đã có đồng tiền riêng của mình.

Được pháp luật cho phát hành trong toàn quốc, được nhân dân tín nhiệm. Đó là một thắng lợi to lớn trong lịch sử tiền tệ ở Việt Nam và một thành tựu to lớn trong lịch sử tiền tệ Việt Nam và một thành tựu to lớn trong quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.

* Phục hồi công thương nghiệp và chuyển dần nền kinh tế sang thời chiến:

Về công nghiệp: Chính phủ đã tiêu thụ đặc lợi đặc quyền của bọn thực dân và giành lại chủ quyền của ta như thủ tiêu đặc quyền khai mỏ của thực dân Pháp, nhà máy và tư bản Pháp được tiếp tục kinh doanh một số nhà máy như điện, nước, ở thành phố, than ... nhưng phải tuân theo luật lệ và chịu sự kiểm soát của ta. Chủ trương này đã ngăn ngừa được sự phá hoại của họ đã tránh được sự xáo trộn không cần thiết.

Về giao thông vận tải: Việc cấp bách là sửa chữa những chỗ bị bom đạn tàn phá trong chiến tranh thế giới lần thứ hai như: Về đường bộ đã sửa chữa được 50 trong số 60 chiếc cầu bị bắn phá, sửa được 500 km đường bộ, về đường sắt sửa xong được 15 trong số 18 chiếc cầu bị bom phá, tu sửa được 32 km đường bị hư hỏng… chưa đầy 1 tháng sau đường xe lửa Việt Nam đã được tổ chức lại, xe lửa đã đi được từ Nam ra Bắc và ngược lại. Chính phủ tiêu quyền kinh doanh đường xe lửa Hải Phòng - Vân Nam của công ty xe lửa Vân Nam của Pháp và giao cho bộ giao thông công chính nước ta quản lý.

Về thương nghiệp: Ngày 5 tháng 9 năm1945 chính phủ ra xác lệnh thủ tiêu những luật lệ cấm chợ ngăn sông, ngày 22 tháng 9 năm 1945 ra sác lệnh bác bỏ các nghiệp đoàn độc quyền kinh doanh. Chính phủ khuyến khích tư bản, tư nhân mở rộng kinh doanh thành lập hội thương gia Việt Nam để nghiên cứu các vấn đề thương nghiệp, đồng thời chính phủ kiên quyết nắm chủ quyền về ngoại thương thủ tiêu các luật lệ của Pháp đặt ra, ngày 9 tháng11 năm1945 chính phủ tuyên bố hủy bỏ quyền ưu tiên xuất nhập khẩu đối với tư bản Pháp.

Sau khi thực dân Pháp gây hấn ở Nam Kỳ (ngày 23 tháng 9 năm 1945) nền kinh tế nước ta chuyển sang thời chiến: ở những thành phố địch đã chiếm được ta tiến hành bao vây và phá hoại kinh tế địch, bất hợp tác với địch. Ở những vùng nông thôn địch sẽ đi qua ta thực hiện chính sách “vườn không nhà trống” và cả nước thực hiện phong trào “ủng hộ kháng chiến Nam Bộ “các đơn vị Nam tiến được tổ chức, các công binh xưởng được thành lập ở khắp nơi, tiến hành thu lượng máy móc nguyên liệu để di chuyển lên Việt Bắc.

Chính sách kinh tế kháng chiến bao gồm 2 mặt: 1 là phá hoại kinh tế địch, 2 là xây dựng kinh tế Việt Nam.

Phá hoại kinh tế địch bằng nhiều cách: phá hủy máy móc kho tàng, đường giao thông vận tải làm vườn không nhà trống, không cho địch vơ vét lương thực, của cải để thực hiện thủ đoạn “ lấy chiến tranh nuôi chiến tranh”.

8.3. Kinh tế Việt Nam thời kỳ 1955 - 1975

8.3.1. Đặc điểm tình hình và nhiệm vụ cơ bản của miền Bắc

Đặc điểm tình hình và nhiệm vụ cơ bản của miền bắc Khi bước vào thời kỳ quá độ tiên tiến lên chủ nghĩa xã hội, miền Bắc nước ta có những đặc điểm sau:

Miền Bắc nước ta có một nền kinh tế nồng nghiệp lạc hậu, chủ yếu dựa trên sản xuất nhỏ cá thể, cơ sở kinh tế của chủ nghĩa tư bản hết sức kém cỏi và non yếu. Công nghệ mới phôi thai, nông nghiệp và thủ công nghiệp có tính chất phân tán, chiếm bộ phận lớn trong nền kinh tế quốc dâ…Trải qua 15 năm chiến tranh, kinh tế miền Bắc lại bị tàn phá nặng nề.

Miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khi chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống thế giới. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc tiến hành trong hoàn cảnh nước ta bị chia thành hai miền. Đế quốc Mỹ đã biến miền Nam thành thuộc địa và căn cứ phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chuẩn bị gây chiến tranh xâm lược.

Xuất phát từ tình hình trên, Đảng và nhà nước chủ trương “…đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Trong quá trình đó có hai nhiệm vụ kinh tế cơ bản là cải tạo xã hội chủ

8.3.2. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

* Khôi phục kinh tế (1955 - 1957)

- Nội dung của việc khôi phục kinh tế: Cần thực hiện về cả 3 mặt: Khôi phục cơ sở sản xuất, khôi phục mức sản xuất ngang trước chiến tranh (năm 1939) và cần có những biến đổi cần thiết về tính chất của nền kinh tế cũ sao cho phù hợp với chế độ dân chủ nhân dân.

- Kết quả khôi phục kinh tế:

+ Hoàn thành cải cách ruộng đất. Sau khi mới giải phóng, ở nhiều địa phương trên miền Bắc, nông dân vẫn chưa có ruộng cày, nên nông dân đã có yêu cầu phải cải cách ruộng đất. Hơn nữa đây là một nguyên tắc bất di bất dịch của cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân. Do đó, Nghị quyết Bộ chính trị tháng 9 năm 1954 đề ra chủ trương tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất ở những nơi chưa làm (chủ yếu là vùng mới giải phóng).

+ Cải cách ruộng đất ở giai đoạn này được tiến hành trong 3 đợt:

Đợt 3 (2/1955 - 6/1955), đợt 4 (6/1955 - 12/1955) và đợt 5 (12/1955 - 7/1956).

Trong đó, đợt 5 là lớn nhất, làm ở 1732 xã của 16 tỷnh (đợt này được ví như một chiến dịch Điện Biên Phủ trên lĩnh vực phản phong…). Cả 5 đợt, cải cách ruộng đất đã được tiến hành ở 3653 xã, 22 tỷnh, phần lớn ở đồng bằng và trung du.

Tuy đợt 4 và 5 có phạm phải một số sai lầm (trấn áp địch tràn lan…) nhưng cuộc cải cách ruộng đất đã thu được những thắng lợi to lớn: cả 5 đợt đã tịch thu, trung thu và trưng mua 810.000 ha ruộng đất, 100.000 trâu bò, 2.000.000 nông cụ, 150.000 nhà cửa đem chia cho hơn 20 triệu hộ, với 9,5 triệu người.

Thắng lợi đó đã có ý nghiã to lớn về cả kinh tế và trính trị.

Xem tất cả 162 trang.

Ngày đăng: 16/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí