Du Lịch Góp Phần Củng Cố Và Phát Triển Các Mối Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế.


thống kê ở trên càng thấy rõ vai trò to lớn của du lịch trong nền kinh tế quốc dân, nó như một đòn bẩy trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động.

1.2.4 Du lịch góp phần củng cố và phát triển các mối quan hệ kinh tế quốc tế.

Du lịch là một ngành mang yếu tố đối ngoại, không chỉ đơn thuần liên quan đến yếu tố khách quốc tế mà còn là mối quan hệ hợp tác giữa các nước, các tổ chức về lĩnh vực phát triển du lịch. Các tổ chức quốc tế mang tính chính phủ và phi chính phủ về du lịch tác động tích cực trong việc hình thành các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Du lịch quốc tế phát triển tạo nên sự phát triển đường lối thông thương quốc tế, tranh thủ được nguồn vốn, kinh nghiệm, công nghệ và nguồn khách...Du lịch quốc tế như một đầu mối "xuất- nhập khẩu" ngoại tệ, góp phần làm phát triển quan hệ ngoại hối quốc tế.

Trong những năm đầu của thế kỷ XXI xu hướng toàn cầu hoá kinh tế tạo ra cơ hội phát triển cho các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, và du lịch cũng không nằm ngoài phạm vi đó. Trong xu hướng chung đó, du lịch Việt Nam cũng đã chủ động hội nhập và hợp tác với các quốc gia, các tổ chức du lịch trên thế giới. Du lịch Việt Nam đã ký và thực hiện tốt 26 hiệp định hợp tác du lịch song phương với các nước là thị trường du lịch trọng điểm và trung tâm giao lưu quốc tế, tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác. Ký hiệp định hợp tác du lịch đa phương 10 nước ASEAN; thiết lập và tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác; tham gia chủ động hơn trong hợp tác du lịch Tiểu vùng Mê Kông - sông Hằng, hợp tác ASEAN, ASEM, APEC, hiệp tác trong Hiệp hội du lịch Châu Á- Thái Bình Dương; có quan hệ bạn hàng với 1000 hãng của 60 nước và vùng lãnh thổ. Ngày 7/11/2006 Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương Mại Thế giới ( WTO). Sự kiện lớn đó mở ra cơ hội lớn đối với ngành du lịch Việt Nam, khẳng định vai trò vị thế của du lịch Việt Nam thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.


Nhờ thế đã tranh thủ được vốn, kinh nghiệm, công nghệ, nguồn khách, đẩy mạnh xúc tiến du lịch và hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động gắn hoạt động du lịch Việt Nam với du lịch khu vực và trên thế giới. Một số chính phủ và tổ chức quốc tế như Luxembourg, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Hà Lan, Cu Ba cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp, EU, WTO... cam kết và viện trợ không hoàn lại gần 40 triệu USD về đào tạo nhân lực và hỗ trợ kỹ thuật cho du lịch Việt Nam; thu hút 6,112 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài vào 239 dự án. Ngành du lịch đã thực hiện đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn, chủ yếu là kinh doanh ăn uống với các nước láng giềng, Nhật Bản, Hoa Kỳ...

Tại Việt Nam, du lịch là cầu nối giao lưu kinh tế có quan hệ chặt chẽ với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Trong kinh doanh du lịch quốc tế khách du lịch có thể là thương nhân. Mở rộng du lịch quốc tế gắn liền với tăng lượng khách phục vụ, trong đó sự đi lại, tìm hiểu thị trường của khách thương nhân được trú trọng. Từ đó, du lịch thúc đẩy đầu tư, buôn bán quốc tế...Trong điều kiện lạc hậu, nghèo nàn, thiếu vốn đầu tư, sự cần thiết hiện đại hoá nền kinh tế Việt Nam điều đó có ý nghĩa to lớn. Bản thân hoạt động kinh doanh du lịch cũng phát triển theo hướng quốc tế hoá, vì khách du lịch thường đến nhiều nước trong một chuyến đi du lịch dài ngày. Và hình thức liên doanh, liên kết ở phạm vị quốc tế trong kinh doanh du lịch là phương thức kinh doanh đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Hoạt động kinh doanh du lịch với lợi nhuận kinh tế cao, đến lượt nó kích thích đầu tư nước ngoài vào du lịch và tăng cường chính sách mở cửa.

Kết quả hoạt động hợp tác, hội nhập kinh tế đa phương và song phương trong du lịch; việc đón tiếp gần 3 triệu khách du lịch quốc tế mỗi năm và đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch ra nước ngoài đã đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền về đất nước, con người và du lịch Việt Nam, tranh thủ được


sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, tăng cường ngoại giao nhân dân, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá của Đảng và Nhà nước.‌

1.3 Khái quát tình hình phát triển của du lịch Việt Nam.

1.3.1 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành du lịch.

Có thể nói, hơn 45 năm hình thành và phát triển, ngành Du lịch luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước phù hợp với yêu cầu cách mạng. Từ năm 1990 đến nay, cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước, ngành Du lịch đã khởi sắc vươn lên đổi mới quản lý và phát triển, đạt được những thành quả ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả qui mô và chất lượng dần khẳng định vai trò, vị trí của mình. Chỉ thị 46/CT-TƯ của Ban bí thư trung ương Đảng khoá VII tháng 10 năm 1994 đã khẳng định " Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước". Cơ chế chính sách phát triển du lịch từng bước được hình thành, thể chế hoá bằng các văn bản qui phạm pháp luật, tạo môi trường cho du lịch phát triển, nâng cao hiệu lực quản lý.

Ngành Du lịch đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là " Một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước" với mục tiêu: " Phát triển mạnh du lịch, từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch tầm cỡ trong khu vực". Quan điểm đó được kiểm nghiệm trong thực tiễn phát triển du lịch Việt Nam trong suốt nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và đến Đại hội nhiệm kỳ lần thứ IX được nâng lên: " Phát triển nhanh du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn". Nhiều tỉnh, thành phố, tỉnh uỷ, thành uỷ đã có kế hoạch và nghị quyết phát triển du lịch,


xác định vai trò, vị trí của du lịch trong cơ cấu kinh tế, đề ra giải pháp và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển du lịch của địa phương. Việc nâng cao nhận thức về du lịch và phát triển du lịch đã chuyển hoá thành hành động cụ thể, để huy động ngày càng tăng các nguồn lực, khai thác tiềm năng và lợi thế du lịch của đất nước cho sự nghiệp phát triển du lịch theo hướng bền vững.

Nhận thức được vai trò, vị trí quan trọng của du lịch, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, ngày 17/10/1992, Chính phủ đã có Nghị định số 05/CP thành lập Tổng cục du lịch; tiếp đó là nghị định số 20-CP, ngày 27/12/1992 và Nghị định số 53-CP, Ngày 7/8/1995, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục du lịch. Theo đó Tổng cục Du lịch có 5 vụ, thanh tra, văn phòng tổng cục du lịch, 4 đơn vị sự nghiệp và các doanh nghiệp trực thuộc. Nhờ có bộ máy tổ chức ổn định, du lịch nước ta đã khởi sắc và phát triển.

Ngày 18/9/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 94/2003NĐ-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục du lịch.Theo nghị định này, Tổng cục du lịch là cơ quan trực thuộc Chính phủ thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về du lịch trong phạm vị cả nước... Từ chức năng đó, Tổng cục du lịch có 20 nhiệm vụ; cơ cấu tổ chức gồm 6 vụ, Thanh tra, Cục xúc tiến, văn phòng tổng cục, 8 đơn vị sự nghiệp và 15 doanh nghiệp trực thuộc. Cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quản lý nhà nước về du lịch đã từng bước được quan tâm thành lập, củng cố và phát triển. Đến nay bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương có Tổng cục du lịch, ở địa phương có 15 sở du lịch, 2 sở du lịch - thương mại, 46 sở Thương mại- du lịch và 1 sở Ngoại vụ - Du lịch, hình thành một hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến địa phương. Các cơ chế chính sách phát triển du lịch được bổ sung, tạo môi trường cho du lịch phát triển. Quy hoạch tổng thể phát triển Du


lịch Việt Nam giai đoạn 1995-2010 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt; Quy hoạch các vùng du lịch và các trọng điểm du lịch đã được xây dựng; trên 50 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và một số điểm du lịch, khu du lịch đã có quy hoạch du lịch, tạo điều kiện để đẩy mạnh quản lý du lịch và xây dựng các dự án đầu tư. Hàng trăm dự án quy hoạch chi tiết du lịch và hàng chục dự án quy hoạch du lịch khác đang được khẩn trương thực hiện, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước, góp phần quản lý, khai thác tài nguyên du lịch ngày một hiệu quả. Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001 - 2010 đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt tháng 7/ 2002. Chương trình hành động quốc gia về Du lịch được phê duyệt thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn 2001-2005 và Chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2006 - 2010 đang trình Chính phủ phê duyệt.

Chính sách, thể chế tạo nền tảng thúc đẩy du lịch phát triển đã được hình thành và đổi mới phù hợp dần với điều kiện và xu hướng phát triển của du lịch thế giới và trong nước. Pháp lệnh du lịch ra đời năm 1999 là khung pháp lý cao nhất, là bước ngoặt quan trọng khẳng định được vai trò của Ngành du lịch và thể chế hoá đường lối phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước, tạo điều kiện cho hoạt động Du lịch phát triển và có định hướng mục tiêu rõ ràng. Các nghị định thông tư hướng dẫn pháp lệnh Du lịch về các lĩnh vực quản lý chi nhánh, văn phòng Đại diện du lịch ở trong và ngoài nước; lữ hành, lưu trú, hướng dẫn du lịch, thanh tra du lịch...đã được ban hành và thực hiện có hiệu quả. Năm 2005, quốc Hội đã thông qua luật du lịch để điều chỉnh các quan hệ du lịch ở tầm cao hơn; khẳng định một lần nữa vị thế của ngành du lịch Việt Nam ngay từ trong đường lối, chính sách.

Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến du lịch như Pháp lệnh xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại cho người Việt Nam, người nước ngoài và các


văn bản khác đã được bổ sung; thủ tục xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại, hải quan liên tục được cải tiến thuận tiện hơn cho khách và các nhà đầu tư.

Như vậy, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các ngành, các cấp phối hợp với sự hưởng ứng của nhân dân, bạn bè quốc tế ủng hộ...ngành Du lịch Việt Nam đã có một môi trường phát triển thuận lợi để vững bước tiến vào thế kỷ XXI với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1.3.2 Tình hình Phát triển ngành du lịch Việt Nam.

Trải qua hơn 45 năm phát triển, một quãng thời gian không dài với sự nghiệp phát triển của một ngành, song có thể thấy được những bước chuyển biến mạnh mẽ cả về số lượng và chất của du lịch Việt Nam, là một trong những ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc; có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, có tốc độ tăng trưởng khá, kể cả trong điều kiện khủng hoảng kinh tế tại Châu Á, thiên tai dịch bệnh diện rộng, toàn cầu và chiến tranh xung đột và khủng bố ở nhiều nơi trên thế giới những năm gần đây. Theo số liệu thống kê của tổng Cục thống kê, Năm 2006 khách quốc tế tới Việt Nam đạt 3,585 triệu lượt, tăng 3% so với năm 2005. Khách du lịch nội địa đạt 17,5 triệu lượt, tăng 6,6% so với năm 2005. Mặc dù số lượng khách du lịch quốc tế tăng trưởng không cao song doanh thu từ du lịch vẫn tăng trưởng cao. Năm 2006, doanh thu du lịch đạt 51.000 tỷ đồng, trong đó doanh thu từ du lịch quốc tế đạt 44.000 tỷ đồng.

Với việc nâng cao nhận thức du lịch và phát triển du lịch, những năm qua du lịch Việt Nam đã huy động ngày một nhiều nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá sản phẩm. Toàn ngành và các địa phương, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm du lịch, đã phát huy nội lực, huy động vốn từ nhiều nguồn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật


chất du lịch. 5 năm vừa qua Chính phủ đã cấp 2.146 tỷ đồng hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch ở các khu du lịch trọng điểm trong cả nước. Đã phối với hợp với các ngành và địa phương chỉ đạo phát triển các trọng điểm du lịch, các vùng du lịch mà nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định; khai thác và phát huy lợi thế về hạ tầng và điều kiện kinh tế - xã hội của các khu kinh tế mở và vùng kinh tế trọng điểm để phát triển du lịch; gắn kết hoạt động du lịch với hoạt động các khu kinh tế mở, các vùng kinh tế trọng điểm

Bảng 1.1: Vốn ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch


Năm

2001

2002

2003

2004

20051

20062

20072

Tổng số

Lượng vốn

(tỷ đồng)

266

380

450

500

550

620

750

3.516

Số dự án

23

73

167

122

-

-

-

385

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Phát triển kinh tế du lịch Ninh Bình - 4

(1) Năm 2005 vốn đầu tư hạ tầng du lịch được ghi cho 58 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, không ghi cho dự án.

(2) Năm 2006 và năm 2007 vốn đầu tư hạ tầng du lịch được ghi cho 59 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, không ghi cho dự án.

Nguồn: Tổng cục Du lịch

Vốn đầu tư cơ sở hạ tầng từ ngân sách nhà nước đã khuyến khích các địa phương, các thành phần kinh tế đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Cùng với đầu tư của Nhà nước và các thành phần kinh tế trong nước, Ngành du lịch đã thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến nay cả nước có 190 dự án với tổng số vốn đầu tư là 4,64 tỷ USD, ở 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các địa phương thu hút được nhiều dự án và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Lâm Đồng, Quảng Ninh, Khánh Hoà...

Bảng 1.2: Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) thời kỳ 1995 -2007



Năm

1995

2000

2001

2002

2003

2004

2007

Thời kỳ

1995-2007

Số dự án

24

02

04

25

13

15

47

130

Vốn (Triệu USD)

1.381,2

22,8

10,3

174,2

239

111,17

1.863

3.801,67

Nguồn: Tổng cục Du lịch

Đặc biệt ngành du lịch đã tranh thủ được nhiều tổ chức quốc tế các chính phủ và tổ chức phi chính phủ tài trợ cho phát triển du lịch như về các lĩnh vực quy hoạch phát triển du lịch, phát triển nguồn nhân lực du lịch...Cùng với dự án phát triển nguồn nhân lực do Luxenbourg với số vốn trên 10 triệu Euro và dự án EU tài trợ với số vốn khoảng 12 triệu Euro, Tổng cục du lịch đã tiếp nhận và điều hành dự án "phát triển du lịch Mê Kông" do ADB tài trợ, tập trung chủ yếu cho xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch tại Đồng bằng sông Cửu Long.

Đầu tư ra nước ngoài tuy còn mới đối với Du lịch Việt Nam, song bước đầu cũng được thực hiện với chủ trương dựa vào lợi thế so sánh trong khai thác giá trị văn hoá, ẩm thực, nguyên liệu, lao động rẻ... Các dự án đầu tư ra nước ngoài được thực hiện dưới hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn, với các hình thức kinh doanh ăn uống tại một số nước láng giềng và các nước Nhật, Đức, Hoa Kỳ. Tuy các dự án chưa nhiều, qui mô nhỏ, nhưng đã đạt được hiệu quả và phù hợp với xu hướng chung của hội nhập kinh tế thế giới.

Trong thời gian hơn 10 năm qua, cả nước đã nâng cấp, xây mới 50.000 phòng khách sạn (tăng gấp hơn 2 lần của hơn 30 năm trước). Đến nay, cả nước có khoảng 6000 cơ sở lưu trú, với 130.000 buồng trong đó có 2.575 cơ sở được xếp hạng tự đạt tiêu chuẩn đến 5 sao với tổng số 72.458 buồng (18 khách sạn 5 sao với 5.251 buồng; 48 khách sạn 4 sao với 5.797 buồng; 119

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 17/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí