năm. Vì vậy, trên thực tế hoạt động kinh doanh du lịch thường mang tính thời vụ. Sự dao động ( về thời gian ) trong tiêu dùng du lịch gây khó khăn cho việc tổ chức hoạt động kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các nhà kinh doanh du lịch. Khắc phục tính mùa vụ trong du lịch luôn là vấn đề bức xúc trong lĩnh vực kinh doanh du lịch.
1.1.3 Các loại hình du lich:
Ngành kinh tế du lịch được hình thành và phát triển khi nghề tiểu thủ công được tách khỏi sản xuất nông nghiệp. Ở thời Cổ Đại loại hình du lịch phổ biến là du lịch tôn giáo với nhu cầu tín ngưỡng, hàng ngàn người đã hành hương tới các đền chùa, nhà thờ, thánh địa. Đến thời Trung Đại xuất hiện các hình thức du lịch công vụ, du lịch tham quan của các tầng lớp quí tộc, các chính khách, thương gia. Sang thời kỳ Cận Đại khoa học kỹ thuật đã có những bước phát triển đáng kể thì du lịch cũng phát triển nhanh chóng. Song phần lớn du khách mới chỉ là tầng lớp thượng lưu và trung lưu.
Đến thời kỳ khoa học công nghệ phát triển cao, đặc biệt từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến nay đã thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển nhanh chóng. Du lịch đã trở thành phổ biến trong đời sống của con người và ngày càng phát triển đa dang phong phú. Tuy nhiên để có thể đưa ra các định hướng và chính sách phát triển đúng đắn về du lịch, các nhà quản lý vĩ mô về du lịch cũng như các nhà quản trị Doanh nghiệp du lịch cần phân du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau. Có nhiều tiêu chí để phân chia các loại hình du lịch.
* Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa.
- Du lịch quốc tế: là hình thức du lịch mà ở đó điểm xuất phát và điểm đến của khách nằm ở lãnh thổ của các quốc gia khác nhau.
- Du lịch nội địa: là hình thức đi du lịch mà điểm xuất phát và điểm đến của khách cùng nằm trong lãnh thổ của một quốc gia.
* Căn cứ vào nhu cầu làm nảy sinh hoạt động du lịch thì du lịch được phân thành những loại sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển kinh tế du lịch Ninh Bình - 1
- Phát triển kinh tế du lịch Ninh Bình - 2
- Du Lịch Góp Phần Củng Cố Và Phát Triển Các Mối Quan Hệ Kinh Tế Quốc Tế.
- Kinh Nghiệm Phát Triển Du Lịch Ở Một Số Tỉnh Thành Ở Việt Nam
- Thực Trạng Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Ở
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
- Du lịch chữa bệnh: Đi du lịch để chữa một căn bệnh nào đó, gắn liền với nghỉ ngơi tại các trung tâm chữa bệnh bên các nguồn nước khoáng và khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, khí hậu thích hợp.
- Du lịch nghỉ ngơi, giải trí: Xuất phát từ nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí để phục hồi sức khoẻ. Đây là loại hình có tác dụng thư giãn.
- Du lịch thể thao: Xuất phát từ sự ham mê thể thao, gồm du lịch thể thao chủ động tham gia trực tiếp vào các hoạt động thể thao như: leo núi, câu cá, bơi thuyền, săn bắn...
- Du lịch văn hoá: Đáp ứng nhu cầu hiểu biết thích nâng cao tìm hiểu nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, danh lam thắng cảnh, chế độ xã hội, kinh tế, văn hoá, phong tục tập quán...của nơi đến du lịch.
- Du lịch công vụ: Với mục đích chính nhằm thực hiện nhiệm vụ công tác. Tham gia loại hình này là khách đi dự các hội nghị, hội thảo và dự các lễ kỷ niệm lớn.
- Du lịch thương gia
- Du lịch tôn giáo
* Căn cứ vào hình thức tổ chức chuyến đi. Theo tiêu thức này, du lịch được phân thành:
- Du lịch theo đoàn: ở loại hình này, các thành viên tham dự đi theo đoàn và thường có chuẩn bị chương trình từ trước, trong đó đã định ra những nơi sẽ tới thăm, nơi lưu trú và ăn uống.
- Du lịch cá nhân: Cá nhân đi du lịch theo kế hoạch định trước của tổ chức du lịch, tổ chức công đoàn hay tổ chức xã hội khác. Khách du lịch không phải đi cùng đoàn mà chỉ tuân theo những điều kiện đã được thông báo và chuẩn bị trước. Tuy nhiên, các cá nhân vẫn co thể đi du lịch tự do mà không cần thông qua tổ chức du lịch nào.
* Căn cứ vào phương tiện giao thông được sử dụng, du lịch được phân thành:
- Du lịch bằng xe đạp: loại hình này phổ biến ở các nước phát triển và có địa hình khá bằng phẳng như áo, Hà Lan, Đan Mạch...Du lịch bằng xe đạp thường tổ chức từ một đến ba ngày, thường tổ chức vào cuối tuần và đến những điểm du lịch gần.
- Du lịch bằng xe máy
- Du lịch bằng ô tô: Đây là loại hình du lịch phổ biến ở các nước phát triển, đặc biệt là Châu Âu và được đi bằng ô tô riêng.
- Du lịch bằng tàu thuỷ: Loại hình này đã có từ lâu, tàu thuỷ dùng cho du lịch thường là một tổ hợp đảm bảo nhiều loại dịch vụ...
- Du lịch bằng tàu hoả: Loại hình này xuất hiện từ giữa thế kỷ trước và có chi phí giao thông thấp, nên không phù hợp với nhiều tầng lớp xã hội.
- Du lịch bằng máy bay: là một trong những loại hình tiên tiến đáp ứng nhu cầu của khách du lịch trong nước, những vùng xa xôi và có mức sống cao.
Tuy nhiên du lịch máy bay có nhược điểm giá thành cao, nên không phù hợp với tầng lớp xã hội có thu nhập thấp.
* Căn cứ vào thời gian đi du lịch phân thành:
- Du lịch dài ngày: Diễn ra vào các kỳ nghỉ phép năm, nghỉ hè hoặc nghỉ đông và kéo dài một tuần đến vài tuần thực hiện các chuyến đi thăm những điểm du lịch ở xa, du lịch nghỉ ngơi hay du lịch văn hoá.
- Du lịch ngắn ngày: Thường kéo dài đến 3 ngày và vào cuối tuần, phát triển nhiều ở những nước có chế độ làm việc 5 ngày: Anh, Pháp, Mỹ...
* Căn cứ vào vị trí địa lý của nơi đến du lịch được phân thành:
- Du lịch nghỉ núi
- Du lịch nghỉ biển, sông, hồ
- Du lịch thành phố
- Du lịch đồng quê.
Nhìn chung, các loại hình du lịch thường phối hợp chặt chẽ với nhau, như đi dự hội nghị, hội thảo kết hợp với tham quan nghỉ mát, vui chơi giải trí; du lịch nghỉ ngơi giải trí với du lịch nhân văn; du lịch công vụ với du lịch văn hoá... Do đó, để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, các tổ chức du lịch cần nghiên cứu cách thức tổ chức các loại hình du lịch đan xen để đáp ứng nhu cầu tối đa của khách, tuỳ theo sở thích của từng loại khách.
1.2 Vai trò của ngành du lịch trong nền kinh tế quốc dân
1.2.1 Du lịch là ngành kinh tế quan trọng của đất nước.
Trong sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, du lịch đã và đang trở thành một ngành kinh tế quan trọng đối với mỗi quốc gia. Ngày 3 và ngày 5 tháng 11 năm 1994 tại OSAKA Nhật Bản, Hội nghị Bộ trưởng du lịch thế giới có các đoàn đại biểu của 78 nước và vùng, 18 chính quyền địa phương và 5 quan sát viên. Điểm 2 phần I của tuyên bố du lịch OSAKA khẳng định: " Du lịch là nguồn lớn nhất tạo ra GDP và việc làm thế giới, chiếm 1/10 mỗi loại, đồng thời đầu tư cho du lịch và các khoản thu từ
thuế liên quan tới du lịch tương ứng cũng tăng cao. Những sự gia tăng này cùng với các chỉ tiêu khác của du lịch dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng một cách vững chắc và như vậy du lịch sẽ là đầu tàu kéo nền kinh tế thế giới trong thế kỷ XXI" [9 Tr 51].
Trước hết, Du lịch tham gia tích cực vào quá trình tạo nên thu nhập quốc dân ( sản xuất ra đồ lưu niệm, chế biến thực phẩm, xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật...) làm tăng thêm tổng sản phẩm quốc nội. Du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội và tham gia tích cực vào quá trình phân phối lại thu nhập quốc dân. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà còn gián tiếp đối với các ngành liên quan, tạo thu nhập cho cộng đồng dân cư địa phương. Tốc độ tăng nhanh về thu nhập có thể thấy rõ là năm 1990 thu nhập xã hội của cả nước từ du lịch mới đạt 1.350 tỷ đồng thì đến năm 2004 con số đó đã là 26.000 tỷ đồng, gấp 20 lần.
Du lịch phát triển góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành du lịch trong khối ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, củng cố sức khoẻ cho nhân dân lao động và do vậy góp phần làm tăng năng suất lao động như SaPa ( Lào Cai), Hạ Long( Quảng Ninh), Cát Bà( Hải Phòng), Sầm Sơn ( Thanh Hoá), Cửa Lò( Nghệ An), Huế, Hội An(Quảng Nam)...và ở một số địa phương đồng bằng Sông Cửu Long.
Du lịch còn có tác động tích cực vào việc làm tăng thu nhập quốc dân thông qua thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong việc cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Cùng với hàng không dân dụng, kiều hối, cung ứng tàu biển, bưu điện quốc tế và các dịch vụ thu ngoại tệ khác, du lịch quốc tế hàng năm đem lại cho các quốc gia nhiều ngoại tệ. Đây là vai trò trực tiếp nhất của
du lịch đối với nền kinh tế, nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đã thu hàng tỷ USD mỗi năm thông qua việc phát triển du lịch.
Du lịch còn là hoạt động xuất khẩu có hiệu quả cao nhất trong nền kinh tế. Tính hiệu quả cao trong kinh doanh du lịch thể hiện trước nhất ở chỗ, du lịch là một ngành " xuất khẩu tại chỗ " những hàng hoá công nghiệp, hàng tiêu dùng, thủ công mỹ nghệ, đồ cổ phục chế, lâm sản....theo giá bán lẻ cao hơn (nếu như bán qua xuất khẩu sẽ theo giá bán buôn). Được trao đổi thông qua con đường du lịch các hàng hoá xuất khẩu mà không phải chịu hàng rào thuế quan mậu dịch quốc tế. Du lịch còn là ngành "xuất khẩu vô hình" hàng hoá du lịch. Hai hình thức xuất khẩu này đem lại lợi nhuận kinh tế cao hơn rất nhiều, do tiết kiệm được đáng kể chi phí đóng gói bao bì, bảo quản và thuế xuất nhập khẩu, có khả năng thu hồi vốn nhanh và lãi suất cao do nhu cầu du lịch là nhu cầu cao cấp có khả năng thanh toán.
Du lịch còn có vai trò khuyến khích và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay, là giá trị ngành dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội và trong số người có việc làm. Do vậy các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của đồng vốn, thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao vì vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao thông vận tải mà khả năng thu hồi vốn nhanh, kỹ thuật không phức tạp.
1.2.2 Du lịch góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp các sản phẩm du lịch được tạo ra không đơn thuần là của ngành du lịch mà còn là sự kết hợp của các ngành khác. Chẳng hạn, muốn có các cơ sở lưu trú thì phải có ngành xây dựng; có được các bữa ăn cung cấp cho du khách là phải có ngành nông nghiệp, ngành
công nghiệp chế biến...Do đó, hoạt động kinh doanh du lịch đòi hỏi sự hỗ trợ liên ngành, yêu cầu về sự hỗ trợ liên ngành là cơ sở cho các ngành khác (như giao thông vận tải, tài chính, bưu điện, công nghiệp, nông nghiệp, hải quan, hàng không....) phát triển, đối với nền sản xuất xã hội du lịch mở ra một thị trường tiêu thụ hàng hoá. Mặt khác, sự phát triển du lịch tạo ra các điều kiện để khách du lịch tìm hiểu thị trường, ký kết hợp đồng về sản xuất kinh doanh trong nước, tận dụng các cơ sở vật chất kỹ thuật ở các ngành kinh tế khác.
Phát triển du lịch sẽ mở mang, hoàn thiện cơ sở hạ tầng kinh tế như mạng lưới giao thông công cộng, mạng lưới điện nước, các phương tiện thông tin đại chúng...Đặc biệt là ở những vùng phát triển du lịch, do xuất hiện nhu cầu đi lại, vận chuyển thông tin liên lạc...của khách du lịch, cũng như những điều kiện cần thiết cho cơ sở kinh doanh du lịch hoạt động nên các ngành này phát triển. Tuy nhiên, khách không chỉ dừng lại ở điểm du lịch mà trước đó và sau đó khách có nhu cầu đi lại giữa các điểm du lịch, trên cơ sở đó ngành giao thông vận tải phát triển.
Hoạt động du lịch còn tạo thêm nguồn thu để tôn tạo trùng tu các di tích, di sản và nâng cao ý thức trách nhiệm giữ gìn, phát triển di sản văn hoá vật thể và phi vật thể; khôi phục lễ hội, làng nghề truyền thống, truyền tải giá trị văn hoá đến các tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế....tạo thêm sức hấp dẫn thu hút khách du lịch. Thông qua du lịch các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển, mở rộng thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ cho các ngành khác, thúc đẩy hoạt động thương mại và mang lại hiệu quả cao với hình thức xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch. Các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, giao thông, xây dựng, viễn thông nhờ phát triển du lịch mà những năm qua đã có thêm động lực phát triển, diện mạo của nền kinh tế - xã hội được cải thiện và nâng lên trình độ cao hơn.
1.2.3 Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
Du lịch là ngành kinh tế góp phần tích cực giải quyết việc làm cho người lao động. Do đặc trưng của ngành du lịch là ngành phục vụ và không thể cơ giới hoá được nên đòi hỏi nhiều lao động sống. Do vậy, phát triển du lịch sẽ tạo thêm nhiều việc làm mới và tạo điều kiện tăng thu nhập cho người dân địa phương.Theo thống kê năm 2000 của thế giới, du lịch là ngành tạo việc làm quan trọng. Tổng số lao động trong các hoạt động liên quan đến du lịch chiếm 10,7% tổng số lao động toàn cầu. Cứ 2,5 giây du lịch tạo ra được một việc làm mới, đến năm 2005 cứ 8 lao động thì có một người làm trong ngành du lịch, so với tỷ lệ hiện nay là 1/9. Một buồng khách sạn từ 1 đến 3 sao trên thế giới hiện nay thu hút khoảng 1,3 lao động trong các dịch vụ chính và khoảng 5 lao động trong các dịch vụ bổ sung. Số lao động dịch vụ bổ sung có thể tăng lên nhiều lần, nếu các dịch vụ này được nâng cao về chất lượng và phong phú về chủng loại. Theo dự báo của WTO, năm 2010 ngành du lịch sẽ tạo khoảng 150 triệu việc làm, chủ yếu tập trung ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Ở Việt Nam, ngành du lịch cũng đã giải quyết một phần không nhỏ công ăn việc làm cho người lao động cả trực tiếp lẫn gián tiếp. Năm 1990 toàn ngành mới có hơn 17.000 lao động trực tiếp, đến nay đã có trên 23 vạn lao động trực tiếp ( tăng gần 10 lần so với 30 năm trước, phần đông từ các ngành khác chuyển sang) và trên 50 vạn lao động gián tiếp, chiếm 2,5% lao động toàn quốc, phần lớn là ở độ tuổi dưới 30 (60%); phân bố trên phạm vi cả nước ( Miền Bắc 40%, miền Trung 10%, miền Nam 50%). Lao động quản lý chiếm tỷ trọng khá cao (25%); lao động trực tiếp ở các ngành nghề chuyên sâu chiếm 75%, trong đó lễ tân là 9%, phục vụ buồng là 14,8%, phục vụ bàn, bar là 15%, nhân viên nấu ăn là 10,6%, nhân viên lữ hành và hướng dẫn viên là 4,9%, nhân viên lái xe, tàu du lịch là 10,6% và 36,5% còn lại là các lao động làm nghề khác. Có 32% lao động phục vụ trực tiếp bằng tiếng Anh; 3,2% biết tiếng Pháp; 3,6% biết tiếng Trung Quốc ở các mức độ khác nhau. Qua số liệu