Thực Hiện Xã Hội Hoá Trong Đầu Tư, Bảo Quản Và Tôn Tạo Di Tích, Bảo Vệ Môi Trường Cảnh Quan Thiên Nhiên

- Triển khai các hoạt động như: xây dựng quy ước bảo vệ rừng, bảo vệ di sản, các loại động thực vật cấp thôn, triển khai các hoạt động tuần tra kiểm soát lâm sản, bảo vệ rừng, khoanh nuôi phục hồi rừng, trồng rừng, tuyên truyền về công tác bảo tồn thiên nhiên.

- Hỗ trợ phát triển kinh tế, xã hội của người dân trong thôn.

- Báo cáo tình hình thực hiện công tác, báo cáo cấp có thẩm quyền những vụ việc mà Hội đồng không đủ năng lực và thẩm quyền giải quyết.

- Phối hợp với các hội đồng quản lý rừng thôn khác trong các hoạt động.

Hội đồng giám sát đánh giá

Hội đồng giám sát được thành lập độc lập với Hội đồng quản lý tài nguyên, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của UBND xã, Ban quản lý các di tích, điểm du lịch. Thành viên Hội đồng giám sát đánh giá nòng cốt là cán bộ của Hội đồng nhân dân xã. Hội đồng giám sát đánh giá ở các thôn có thể là: già làng hoặc người có uy tín nhất thôn, thành viên từ hội phụ nữ, thành viên từ hội cựu chiến binh.

4.2.5.2. Tăng cường công tác bảo tồn tài nguyên du lịch

Bảo tồn và khai thác luôn phải đi song hành khi sử dụng tài nguyên, nếu chúng ta chỉ tập trung bảo tồn mà không tập trung đến khai thác thì sẽ dẫn đến tình trạng tài nguyên bị lãng phí, làm giảm những giá trị mà nó mang lại. Nhưng ngược lại, nếu chỉ chăm chăm vào khai thác mà không bảo tồn còn nguy hại hơn rất nhiều lần, sẽ dẫn đến các di tích bị xâm hại, môi trường bị hủy hoại và những hệ lụy khác cho xã hội. Vì vậy, cần phải nhấn mạnh đến vai trò của dân cư trong việc khai thác, bảo tồn và gìn giữ các di tích. Đào tạo, huấn luyện nguồn nhân lực riêng phục vụ việc bảo tồn và khai thác giá trị di tích bao gồm: quản lý di tích, nghiên cứu viên về di tích, các kiến trúc sư, kỹ sư, thợ nghề, những bảo vệ di tích ở cơ sở... Do đó, các tỉnh phía nam ĐBSH cần có giải pháp giải quyết giữa bảo tồn và khai thác phát triển di tích dựa trên quan điểm di sản, di tích là cái đang có, cái không thể thay thế, nên vì sự PTBV, vì lợi ích cộng đồng, lợi ích của các thế hệ hôm nay và mai sau thì cái mới, cái xây dựng sau cần phải hết sức tôn trọng di sản gốc.

Công tác bảo tồn di tích chỉ đạt được hiệu quả cao khi đảm bảo các nguyên tắc

sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 201 trang tài liệu này.

Thứ nhất, luôn trân quý và gìn giữ những di sản nguyên gốc. Nếu có sửa chữa,

mở rộng hay khai thác vẫn phải đảm bảo những giá trị gốc bao gồm yếu tố lịch sử, văn hóa hiện hữu trong đó.

Phát triển du lịch ở các tỉnh phía nam đồng bằng sông Hồng theo hướng bền vững - 19

Thứ hai, thường xuyên kiểm tra, đánh giá di tích. Khi tiến hành phải nghiên cứu tất cả các vấn đề xung quanh di tích đó như: giá trị, hoàn cảnh lịch sử, văn hóa của địa phương và hiện trạng đang có. Trước khi đưa ra các giải pháp tu bổ, bảo tồn cụ thể cần tham khảo ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học và của dân cư đặc biệt những

người cao tuổi gắn bó và hiểu biết về địa phương.

Thứ ba, các di tích luôn có những dữ liệu ghi chép khoa học nên muốn tu bổ phải nghiên cứ kỹ càng, cẩn thận những căn cứ đó. Khi tu bổ và phục hồi di tích luôn ưu tiên tối đa sử dụng vật liệu và công nghệ truyền thống.

Thứ tư, khi tu bổ, phục hồi vấn đề cốt lõi là làm thế nào để di tích có thể tồn tại bền vững và lâu dài dạng nguyên bản từ hình dáng, chất liệu, màu sắc đến các đường trang trí…

Thứ năm, có đội ngũ chuyên gia tư vấn, giám sát, chính quyền địa phương và người dân thường xuyên giám sát chặt chẽ quá trình tu bổ, sửa chữa, phục hồi, tôn tạo di tích.

Tóm lại, các dự án tu bổ, tôn tạo có đặc thù riêng, mang đậm chất chuyên ngành về quá trình quản lý xây dựng và thi công; đồng thời có nhiều khác biệt so với các dự án xây dựng khác. Do đó, cần phải có cơ chế quản lý riêng phù hợp với tình hình thực tế và các quy định của Luật di sản văn hóa và Luật Xây dựng.

Trong thời gian tới, để phát triển du lịch các tỉnh phía nam ĐBSH cần thực hiện một số nội dung như sau:

Đẩy mạnh phong trào xã hội hóa hoạt động bảo tồn di tích. Mỗi di sản văn hóa, di tích lịch sử và lễ hội được đưa trở lại với cộng đồng bằng cách đánh thức tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào về sự hào hùng và nghĩa khí tồn tại trong truyền thống của dân tộc ở mỗi người dân. Tăng cường quản lý nhà nước, gắn trách nhiệm của chính quyền, doanh nghiệp và dân cư với công tác bảo tồn; tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho người dân nhằm nâng cao nhận thức về truyền thống văn hóa của dân tộc, để từ đó mỗi cá nhân đều có ý thức bảo vệ tài nguyên nói chung, các di sản văn hóa phi vật thể nói riêng. Đồng thời, đưa di sản văn hóa phi vật thể này trong các tiết học thực tế ở các bảo tàng, đưa vào tư liệu soạn bài để giảng dạy và sinh hoạt cộng đồng, có chính sách, chế độ cho các nghệ nhân và những người có công sức gìn giữ, bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.

Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị cho công tác nghiên cứu, bảo tồn các di sản văn hóa, di tích lịch sử văn hóa và lễ hội.

Đẩy mạnh hợp tác trong và ngoài nước về công tác bảo tồn di sản văn hóa, đặc biệt là những di tích và tín ngưỡng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đây là một nét văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và tinh thần đại đoàn kết dân tộc.

Các lễ hội truyền thống ở các tỉnh phía nam ĐBSH cần được nghiên cứu đầy đủ và hoàn thiện về nội dung, nghi thức, nghi lễ,...để làm nổi bật lên giá trị văn hóa đặc sắc của vùng. Để bảo tồn tài nguyên tại điểm du lịch các tỉnh phía nam ĐBSH cần có quy chế bảo vệ, khai thác riêng phù hợp hướng phát triển du lịch theo hướng bền

vững.

Bảo tồn di sản, di tích lịch sử và lễ hội để khai thác phục vụ phát triển du lịch phải được coi là một trong những nội dung, định hướng phát triển du lịch, chính sách du lịch hiệu quả của tỉnh. Đồng thời, phải có tiêu chí cụ thể bắt buộc đối với các hướng dẫn viên du lịch tại các khu, điểm du lịch, đặc biệt là khu du lịch Tràng An và các công trình tín ngưỡng dân gian khác. Những hướng dẫn viên được hành nghề ở đây phải đáp ứng điều kiện trình độ đặc thù gắn với lịch sử nguồn gốc của di tích, thắng cảnh.

4.2.5.3 Thực hiện xã hội hoá trong đầu tư, bảo quản và tôn tạo di tích, bảo vệ môi trường cảnh quan thiên nhiên

Tích cực tìm nguồn vốn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh để tôn tạo, tu bổ, sửa chữa các di tích lịch sử - văn hóa. Vận động các doanh nghiệp xây dựng công trình trên địa bàn, doanh nghiệp địa phương hỗ trợ thực hiện công tác tôn tạo, tu bổ, sửa chữa các di tích lịch sử - văn hóa.

Huy động nguồn lực trong cộng đồng dân cư, nhất là nhân dân địa phương để bảo tồn, phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh... Có hình thức khen thưởng xứng đáng những doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đóng góp tích cực đối với công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di tích, bảo vệ môi trường. Nâng tầm tổ chức kỷ niệm các ngày lễ, các lễ hội văn hóa truyền thống cùng các hoạt động văn hóa văn nghệ, hội thi, hội diễn trên địa bàn thành các sự kiện văn hóa du lịch để thu hút khách tham quan du lịch đến địa bàn.

4.2.6 Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về giá trị tài nguyên và môi trường du lịch

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động đến mọi tầng lớp nhân dân có trách nhiệm bảo vệ, không được xâm phạm đến di tích lịch sử văn hóa, cảnh quan môi trường. Tuyên truyền sâu rộng Luật di sản văn hóa, Luật quy hoạch, Quy chế quản lý và bảo vệ di tích và công tác quản lý, chăm sóc, bảo vệ các di tích lịch sử - văn hóa, Luật bảo vệ môi trường đến nhân dân trên địa bàn nơi có di tích, cảnh quan thiên nhiên.

Chủ động phối hợp với các cơ quan báo, đài tuyên truyền, quảng bá tiềm năng phát triển du lịch từ giá trị các di tích lịch sử - văn hóa và cảnh quan môi trường, giá trị sinh thái. Phải làm cho mọi người dân hiểu được tầm quan trọng của tài nguyên đối với phát triển du lịch cũng như ý nghĩa của phát triển du lịch đối với công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch sử - văn hóa, giá trị cảnh quan môi trường.

Đẩy mạnh việc giáo dục cho thế hệ trẻ, học sinh trong nhà trường về phát triển du lịch theo hướng bền vững.

Đối với cộng đồng dân cư: đóng góp cho phát triển du lịch của địa phương

nhưng cũng nhận thức được những tác động của du lịch đối với đời sống địa phương mình từ đó có những hành động tích cực cho phát triển du lịch có trách nhiệm của địa phương mình. Tích cực tham gia các hoạt động của địa phương để khuyến khích phát triển du lịch có trách nhiệm tại địa phương mình như tham gia bảo vệ môi trường, giữ gìn văn hóa… Chủ động trong các hoạt động của dân cư với các sáng kiến về môi trường, văn hóa, xã hội.

4.2.7 Về quản lý nhà nước

4.2.7.1 Nâng cao năng lực quản lý

- Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý du lịch

Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý là giải pháp có tính thường xuyên. Mọi giải pháp chỉ có thể được thực hiện khi quản lý có hiệu quả, muốn vậy năng lực quản lý phải đạt trình độ nhất định. Để làm được điều đó cần giải quyết những vấn đề sau:

Đổi mới tư duy, xây dựng mô hình du lịch mới, hiện đại, khách quan. Việc xác định những đặc trưng cơ bản của mô hình sẽ là cơ sở để xác định cơ cấu bộ máy, chức năng, quyền hạn của các cấp chính quyền trong quản lý du lịch.

Xác định chính xác chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nội dung quản lý hành chính Nhà nước của các cấp trong quản lý du lịch

Nâng cao phẩm chất, năng lực và kiến thức chuyên môn của cán bộ và nhân viên trong bộ máy hành chính quản lý du lịch.

Cải thiện thể chế: nhằm nâng vai trò chính quyền các cấp trong quản lý du lịch - điều kiện cần để phát triển du lịch theo hướng bền vững.

- Tăng cường công tác quản lý quy hoạch và xây dựng

Công tác quản lý quy hoạch KT- XH, quy hoạch môi trường vẫn chưa được chú trọng đúng mức. Để đảm bảo tính bền vững trong quản lý quy hoạch, cần thực hiện các giải pháp:

Rà soát hệ thống quy hoạch, nâng cao tính khả thi của từng quy hoạch, không chỉ riêng quy hoạch xây dựng. Tôn trọng và tuân thủ quy hoạch tổng thể của toàn tỉnh, địa phương.

Lập lại trật tự xây dựng các khu, địa điểm du lịch, giám sát chặt chẽ quy trình đầu tư và xây dựng. Kết hợp cải tạo, trùng tu, di tích theo đúng quy hoạch trên cơ sở tiểu chuẩn xây dựng được quy định về kỹ thuật đô thị, kiến trúc, hạ tầng…

Xây dựng hoàn chỉnh khung xử phạt hợp lý đối với các doanh nghiệp, các chủ đầu tư không thực hiện đúng quy hoạch trong quá trình thi công, trùng tu di tích. Khung hình phạt này phải quy định chặt chẽ hình thức xử lý với trường hợp vi phạm. Hình thức xử phạt phải đủ mạnh để răn đe các chủ đầu có ý định làm sai thiết kế, quy hoạch và hình dáng của kiến trúc ban đầu. Ngoài ra, cần xã hội hóa việc xây dựng hình ảnh quảng bá du lịch ở tỉnh nam ĐBSH. Đồng thời, khuyến khích mọi thành phần kinh

tế tham gia vào du lịch dưới nhiều hình thức khác nhau, hình thành công ty du lịch dựa trên sở hữu kết hợp giữa nhà nước với tư nhân.

Cần xã hội hóa đầu tư gìn giữ, bảo vệ, tôn tạo các di tích lịch sử, văn hóa để tạo điều kiện khai thác du lịch. Có chính sách, kế hoạch về đào tạo nhân lực du lịch và có các chế độ đãi ngộ phù hợp với từng địa phương.

Khuyến khích các địa phương, các công ty, điểm du lịch trong tỉnh liên kết trong hoạt động du lịch từ đó tạo sự đa dạng trong sản phẩm, kết nối tour và điểm du lịch phong phú.

Xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành, các ngành giao thông, nông nghiệp, ngân hàng, bảo hiểm, thể thao,... để thuận lợi khai thác du lịch và lồng ghép các chương trình dự án.

4.2.7.2 Hoàn thiện xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách theo hướng đồng bộ, hiện đại và hiệu quả

Cơ chế, chính sách mềm dẻo, đơn giản, cởi mở là chìa khóa vạn năng trong việc mở ra nút thắt đầu tư nói chung và đầu tư du lịch nói riêng. Kinh nghiệm của nhiều địa phương cho thấy tính hiệu quả của việc “Chỉ xin cơ chế, không xin tiền” trong thu hút đầu tư. Đối với các tỉnh nam ĐBSH, việc vận dụng để nghiên cứu xây dựng và ban hành những cơ chế chính sách ưu đãi đặc thù đối với các nhà đầu tư trong lĩnh vực du lịch là rất quan trọng. Để thực hiện tốt giải pháp này, UBND các tỉnh kiến nghị Chính Phủ chỉ đạo các Bộ liên quan xây dựng chính sách riêng về thuế trong du lịch như: miễn, giảm, ưu đãi thuế, chậm thuế, thuế đất. Với những dự án đầu tư mới như: tạo ra những sản phẩm du lịch đa dạng độc đáo, xây dựng thương hiệu du lịch riêng, phát triển nhân lực, hấp dẫn khách du lịch… tạo điều kiện cho vay với lãi suất ưu đãi, thủ tục thẩm định nhanh gọn.

Tạo cơ chế, chính sách mềm dẻo, đơn giản, cởi mở cho các dự án đầu tư hạ tầng, công trình phụ trợ cho du lịch thông qua hình thức đầu tư BT, BOT; các dự án đầu tư phát triển du lịch phải khai thác được mọi tiềm năng, lợi thế, tài nguyên du lịch sẵn có.

Xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với khu du lịch được xác định là khu du lịch quốc gia, những điểm có tiềm năng lớn để phát triển du lịch; ưu đãi đầu tư vào địa bàn nông thôn, vùng núi triển vọng lớn phát triển du lịch, đặc biệt đầu tư vào khai thác văn hóa bản địa, khám phá ra những nét mới độc đáo trong đời sống của dân địa phương.

Đẩy mạnh thu hút đầu tư vốn từ nước ngoài cho du lịch. Đây là nguồn vốn cực kỳ quan trọng bổ sung cho nguồn vốn đang hạn hẹp trong nước. Nguồn này có thể huy động từ các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài đặc biệt là từ chính cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Người Việt ở nước ngoài thời gian qua đang rất quan tâm tới thị

trường trong nước đặc biệt các khu nghĩ dưỡng, tâm linh và văn hóa. Tận dụng lợi thế này, các tỉnh nên có những chính sách ưu đãi riêng phù hợp với điều kiện của tỉnh và tranh thủ tiếp thu nhanh có hiệu quả cả vốn và công nghệ.

Cũng giống như các ngành khác khi thu hút đầu tư, các tỉnh phía nam ĐBSH cần đa dạng các loại vốn để thực hiện mục tiêu phát triển du lịch. Nhưng trên quan điểm chung là vốn trong nước là trọng tâm bao gồm: vốn ngân sách, vốn từ các tổ chức doanh nghiệp, vốn huy động từ trong dân cư và tranh thủ kết hợp nguồn vốn từ các dự án của các ngành khác có liên quan. Nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển du lịch các tỉnh phía nam ĐBSH đến năm 2025 dự kiến là 22.000 tỷ đồng, dự kiến là: vốn ngân sách nhà nước khoảng 2.015 tỷ đồng, chiếm khoảng 10%, tập trung đầu tư, hỗ trợ đầu tư cho hạ tầng chung khu du lịch, quảng bá phát triển hình ảnh, đầu tư cho nguồn nhân lực có chất lượng,... Khu vực tư nhân (kể cả FDI) cần khoảng 18.135 tỷ đồng (chiếm 90%), tập trung đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đa dạng sản phẩm, xúc tiến quảng bá, phát triển thương hiệu,... (lĩnh vực này tỉnh chỉ hỗ trợ một phần quảng bá hình ảnh và phát triển thương hiệu du lịch). Đây là nguồn vốn cốt yếu để phát triển ngành, do đó cần phát huy vai trò chủ động của khu vực tư nhân và nguồn lực xã hội hóa.

Trên cơ sở mục tiêu và quan điểm đầu tư phát triển du lịch đã đề ra, để tránh đầu tư dàn trải nhằm tăng cường hiệu quả công tác đầu tư phát triển du lịch, ngành du lịch các tỉnh phía nam ĐBSH từ nay đến năm 2025 - 2030 định hướng tập trung đầu tư vào một số lĩnh vực then chốt như phát triển hệ thống hạ tầng, phát triển sản phẩm du lịch, đầu tư cho nguồn nhân lực, xúc tiến chiến lược quảng bá, phát triển và gìn giữ tài nguyên du lịch. Tất cả những định hướng đầu tư này sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện cho du lịch, là điều kiện đủ để du lịch ở các tỉnh phía nam ĐBSH phát triển.

4.2.7.3Tăng cường tính đồng bộ và linh hoạt trong quy hoạch

Trên cơ sở các nội dung của Luật quy hoạch mới có hiệu lực; quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng ĐBSH & DHĐB đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, tiến hành lập các quy hoạch khu, điểm du lịch trên địa bàn: UBND các tỉnh phía nam ĐBSH cần thường xuyên chỉ đạo việc rà soát, cân đối dựa trên quy hoạch đã có triển khai thực hiện theo thứ tự ưu tiên; các địa phương, trên cơ sở quy hoạch tổng thể ngành thực hiện rà soát lại các quy hoạch tổng thể KT-XH toàn thành phố, thị xã, huyện với tầm nhìn dài hạn và trong mối liên hệ với các địa phương khác; triển khai quy hoạch cụ thể các điểm có tiềm năng về tài nguyên văn hóa trên địa bàn, chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện và thông tin để hỗ trợ các nhà đầu tư và kêu gọi đầu tư khai thác du lịch, đặc biệt đối với các điểm mà đề án đề xuất là khu du lịch; đối với các khu du lịch được định hướng phát triển thành khu du lịch trọng điểm (quốc gia, địa phương) dựa theo, tiến hành lập các quy hoạch theo trình tự tổng thể và từng khu chức

năng. Trong đó, tập trung quan trọng vào việc xác định quy mô khu du lịch phù hợp với quy định của Luật và thực tế yêu cầu phát triển; triển khai quy hoạch chi tiết các khu chức năng sau khi có quy hoạch tổng thể các khu du lịch (quốc gia, địa phương). Việc phê duyệt các quy hoạch từ tổng thể đến chi tiết, các dự án đầu tư đều phải lấy ý kiến các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở các cấp, các cơ sở kinh doanh du lịch, cộng đồng ở địa phương; UBND tỉnh chỉ đạo Sở du lịch lập các kế hoạch phát triển du lịch cho thời hạn 5 năm để làm cơ sở lập kế hoạch hằng năm.

4.2.7.4. Giải pháp xúc tiến quảng bá thu hút khách du lịch

a) Xây dựng chiến lược thị trường cho phát triển du lịch

* Thị trường khách du lịch quốc tế

Nhóm thị trường trọng điểm, ưu tiên phát triển trong giai đoạn đến năm 2020 - 2030 (các quốc gia gần: khu vực Đông Bắc Á và khu vực Đông Nam Á)

Khu vực Đông Bắc Á: Theo thứ tự ưu tiên bao gồm thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan. Đây là những thị trường nguồn gửi khách chiếm thị phần lớn của cả nước, của vùng ĐBSH nói chung, các tỉnh phía nam ĐBSH nói riêng. Đối với các thị trường này, cần tập trung thu hút những dòng khách có khả năng chi trả cao, lưu trú dài ngày và sử dụng dịch vụ đa dạng, cao cấp.

Khu vực Đông Nam Á (ASEAN): Thị trường ASEAN là thị trường đầy tiềm năng của du lịch nam ĐBSH vì xu hướng khách đi lại trong vùng vẫn không thay đổi, giá cả hợp với mức thu nhập của người dân ở các nước này, điều kiện đi lại trong khu vực ngày một dễ hơn, dễ hội nhập với phong cách sống ở Việt Nam do có văn hóa, lịch sử tương đồng. Thị trường này tiềm năng ngày một gia tăng, đặc biệt sau khi Cộng đồng chung ASEAN chính thức được thành lập, sự hợp tác khu vực được tăng lên, khả năng thu hút luồng khách này sang Việt Nam là rất lớn, đặc biệt theo hành lang Đông Tây. Luồng khách của thị trường này theo tuyến đường không đến Hà Nội, hoặc thông qua hệ thống đường bộ sau đó đến Ninh Bình và lan tỏa ra các tỉnh ở nam ĐBSH. Tuy nhiên, những thị trường này cũng có những đòi hỏi cao như giá rẻ, dịch vụ chất lượng, hiệu quả, mặt hàng phong phú phù hợp với ý thích mua sắm, đồng thời các sản phẩm du lịch phải khác biệt so với sản phẩm ở nước họ, tránh sự nhàm chán, lặp lại giữa các nước trong khu vực.

Khu vực Châu Âu: Thị trường khách du lịch Pháp: “Pháp là thị trường chính, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số khách Châu Âu đến Ninh Bình. Các đối tượng của thị trường Pháp rất đa dạng và thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau (thương nhân, nhà nghiên cứu, sinh viên, người già, người trẻ...). Khách Pháp đòi hỏi chất lượng các dịch vụ du lịch cao, có khả năng chi trả cao, thích những sản phẩm và dịch vụ mang phong cách Pháp... Các sản phẩm du lịch có thể đáp ứng cho thị trường Pháp bao gồm: Du lịch văn hóa, du lịch tham quan thắng cảnh, du lịch cộng đồng, du lịch

trải nghiệm đồng quê, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch lịch sử, du lịch làng nghề” (Báo cáo Quy hoạch tổng thể du lịch Ninh Bình đến năm 2025, định hướng đến năm 2030). Thị trường khách du lịch Nga:”Khách du lịch Nga được đánh giá là thị trường khách có khả năng chi trả tương đối cao, xếp thứ 9 trên thế giới về mức tiêu dùng. Chi tiêu bình quân của một khách du lịch Nga vào khoảng 1.500 USD/1 chuyến đi, trong đó có khoảng 610 USD chi cho ngoài tour, cao hơn 40% mức chi tiêu trung bình của các du khách nước khác. Khách du lịch Nga có thói quen đi du lịch nước ngoài cùng với gia đình, ít khi đi riêng lẻ. Gần đây, họ cũng đã bắt đầu có sở thích đi du lịch liền 2 nước ở cùng khu vực trong một chuyến đi. Mục đích của khách du lịch Nga khi đi du lịch nước ngoài nói chung và du lịch Việt Nam nói riêng chủ yếu là nghỉ dưỡng, tránh đông, nghỉ mát, tắm biển, tham quan và mua sắm. Khi đi du lịch, khách Nga thường lựa chọn các tour trọn gói tại các điểm đến có nhiều khu resort, các khách sạn chất lượng cao để nghỉ dưỡng; thích xem các chương trình biểu diễn opera, âm nhạc, ba lê hoặc kịch ở nhà hát lớn; thích ăn các loại súp có lẫn thịt, các món quay nhừ, cá hun khói, các loại rau, hải sản; thích dùng nhiều bơ, uống sữa tươi và đặc biệt thích uống rượu vodka; thích mua đồ lưu niệm (lụa, mật ong, nữ trang vàng...)” (Báo cáo Quy hoạch tổng thể du lịch Ninh Bình đến năm 2025, định hướng đến năm 2030). Các thị trường Châu Âu khác: Sau thị trường Pháp, các thị trường Tây Âu có nhiều khách đến Ninh Bình là Anh, Đức, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch... “Cũng như khách Pháp, các thị trường này có những tâm lý, sở thích, những đòi hỏi rất cao về chất lượng các dịch vụ và sản phẩm du lịch” (Báo cáo Quy hoạch tổng thể du lịch Ninh Bình đến năm 2025, định hướng đến năm 2030)... Các thị trường Đông Âu bắt đầu phát triển trở lại và đây sẽ là những thị trường tiềm năng cho các tỉnh nam ĐBSH. Các sản phẩm ưa thích của thị trường Đông Âu là nghỉ dưỡng, tham quan hang động ở Ninh Bình, tham quan Quần thể danh thắng Tràng An, khu vực Tam Cốc - Bích Động... Những sản phẩm lưu niệm thu hút khách này là hàng thủ công như thêu: tranh, quần áo, ga, gối...và hàng mỹ nghệ.

Khu vực Bắc Mỹ, Châu Úc và Trung Đông: Các thị trường này có những đòi hỏi rất cao về chất lượng các dịch vụ và sản phẩm du lịch... Các sản phẩm ưa thích của thị trường này là nghỉ dưỡng, và những hoạt động cảm giác mạnh…

b) Thị trường khách du lịch nội địa

Khách du lịch nội địa đến nam ĐBSH từ khắp mọi miền đất nước, nhưng phần lớn đến từ Hà Nội; các tỉnh, thành phố phía Bắc; các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh... Thành phần khách du lịch nội địa rất đa dạng, thuộc nhiều lứa tuổi, nhiều thành phần nghề nghiệp khác nhau, có thể đi một mình, theo nhóm bạn bè, gia đình, hoặc đi theo đoàn..., với nhiều mục đích khác nhau

Xem tất cả 201 trang.

Ngày đăng: 09/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí