Đánh Giá Chung Về Thực Trạng Chính Sách Phát Triển Các Khu Du Lịch Quốc Gia Thuộc Vùng Du Lịch Đồng Bằng Sông Hồng Và Duyên Hải Đông Bắc


trung tâm kinh tế, chính trị lớn trong vùng như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh,… việc cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc tương đối đảm bảo.

Như vậy vùng du lịch ĐBSH&DHĐB hội tụ đầy đủ các đặc điểm về điều kiện CSHT cần thiết để khai thác và phát triển hoạt động du lịch. Đây chính là những lợi thế làm cho vùng du lịch ĐBSH&DHĐB trở thành một trong số những vùng du lịch hàng đầu của Việt Nam, tạo ra nhiều thuận lợi cho việc xây dựng và triển khai các chính sách phát triển KDLQG của Vùng.

Về CSVCKT du lịch, bao gồm cơ sở lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí và thể thao tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, mặc dù đã có nhưng chưa thực sự đảm bảo về mặt số lượng cũng như chất lượng, chưa đáp ứng được tốt các nhu cầu của du khách và đảm bảo được sự phát triển du lịch hiệu quả trong tương lai. Điều này cũng tạo nên nhiều khó khăn trong việc triển khai thành công các chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng.

- Nhân lực du lịch của địa phương: Dân số tại các địa phương có KDLQG được quy hoạch thuộc Vùng ĐBSH&DHĐB rất đông so với các vùng du lịch khác trên cả nước. Đây là nguồn lực rất quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và cho phát triển du lịch nói riêng. Trình độ dân trí vùng khá cao, do đây là khu vực có thế mạnh về phát triển nguồn nhân lực, với hàng trăm viện nghiên cứu chuyên ngành, các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, tạo nên lợi thế đối với việc phát triển các sản phẩm chủ lực trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp như: lúa gạo, cây ăn quả, thủy sản, gia cầm; cơ khí chế tạo, điện tử, công nghiệp hóa chất và chế biến khoáng sản.

Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ, vì vậy nhu cầu về nguồn nhân lực là rất cần thiết. Căn cứ Quy hoạch phát triển NNL du lịch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, dự báo nhu cầu NNL du lịch đến năm 2030 khoảng 8,5 triệu, trong đó khoảng 3 triệu là lao động trực tiếp. Nhu cầu này được phân bổ không đồng đều theo lãnh thổ mà sẽ tập trung ở các trọng điểm du lịch như ở vùng ĐBSH&DHĐB.

Kết quả điều tra dân số cho thấy ở những trọng điểm du lịch gắn với các đô thị lớn như thành phố Hà Nội, Hải Phòng, tỉnh Quảng Ninh,… tập trung dân số cao, các tỉnh vùng sâu vùng xa, dân số ít và mật độ thấp. Sự phân bố này khá phù hợp với nhu cầu NNL du lịch và đây là nguồn lực quan trọng cho phát triển du lịch thời gian qua. Tuy nhiên, trừ Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh là 3 địa phương rất phát triển về du lịch, các địa phương còn lại, sự phát triển du lịch còn rất hạn chế. Có nhiều nguyên nhân nhưng trong đó không thể không kể đến nguyên nhân từ chất lượng NNL du lịch.


Việc lao động du lịch bị hạn chế về trình độ, kỹ năng, cơ cấu, đặc biệt là tại 8 địa phương còn lại, là yếu tố cản trở rất lớn đến triển khai thực hiện chính sách phát triển KDLQG tại đây, cũng như toàn Vùng ĐBSH&DHĐB.

- Nhận thức của dân cư địa phương tại các KDLQG: Trên phạm vi cả nước nói chung và tại vùng ĐBSH&DHĐB nói riêng, cộng đồng dân cư địa phương có vai trò rất quan trọng trong việc thực thi và triển khai chính sách phát triển KDLQG. Thực tế, vai trò này đã được phát huy khá tốt trong cả việc trực tiếp tham gia cung ứng dịch vụ du lịch cộng đồng và trong một số loại hình du lịch bền vững, cũng như trong việc tạo lập không gian để bảo vệ, duy trì, phát triển các giá trị TNDL truyền thống, đặc sắc của địa phương và với tư cách là khách du lịch nội địa.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

Vùng ĐBSH&DHĐB không có nhiều thế mạnh về du lịch cộng đồng nhưng một vài điểm đến cũng đã xây dựng và bước đầu phát triển được SPDL cộng đồng khá ấn tượng, điển hình như tại KDL làng quê Yên Đức, Đông Triều (Quảng Ninh), làng chài Cửa Vạn (Quảng Ninh),... Để thực hiện được các chính sách phát triển du lịch này, các địa phương đều phải dựa vào cộng đồng dân cư, những người có vai trò quan trọng góp phần gìn giữ, phát triển không gian văn hóa truyền thống để tạo lập được môi trường phát triển du lịch. Nhờ đó, các chính sách phát triển SPDL được triển khai thành công và hiệu quả hơn.

Bên cạnh đó, nhiều địa phương cũng nhờ vào sự thân thiện, lòng hiếu khách, sự tham gia cung ứng dịch vụ du lịch nhiệt tình của cộng đồng dân cư sở tại đã góp phần phát triển du lịch bền vững, điển hình như bà con xã Ninh Hải tham gia chèo thuyền phục vụ khách du lịch tham quan Tràng An (Ninh Bình), bà con làng cổ Đường Lâm (Hà Nội) cung cấp dịch vụ thuyết minh viên tại các ngôi nhà cổ của họ, cung cấp dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi và bán hàng truyền thống của làng (rượu, tương, kẹo bánh,…).

Chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc Việt Nam - 16

Giai đoạn vừa qua, khách du lịch nội địa đến vùng ĐBSH&DHĐB không chỉ là người dân của các vùng du lịch khác mà còn có du khách nội vùng. Tại vùng du lịch này, nhiều SPDL của địa phương này có tính đặc thù, khác biệt so với địa phương khác, là yếu tố hấp dẫn khách du lịch của các địa phương lân cận trong vùng.

Tóm lại, nhờ nhận thức và thiện chí của cộng đồng dân cư địa phương vùng ĐBSH&DHĐB mà việc triển khai thực hiện các chính sách phát triển KDLQG khá thuận lợi. Tuy nhiên, nếu việc đào tạo, huấn luyện và kiểm soát dịch vụ cung cấp của người dân tốt hơn, sát sao hơn thì việc triển khai và thực hiện các chính sách phát triển KDLQG thuận lợi hơn rất nhiều.


- Tài nguyên du lịch: Vùng ĐBSH&DHĐB là một khu vực trải dài từ Tây sang Đông với các miền địa hình khác nhau. Vùng là nơi có lịch sử khai phá lâu đời, nôi của nền văn minh lúa nước, tập trung nhiều di tích, lễ hội, làng nghề truyền thống, làng Việt cổ đặc trưng,… Chính nguồn TNDL tự nhiên và nhân văn phong phú là nhân tố tích cực thực hiện chính sách thu hút đầu tư vào kinh doanh du lịch ở địa phương, quyết định hiệu quả các chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc vùng du lịch khi được xây dựng, triển khai và cũng là cơ sở để hoàn thiện chính sách.

Như vậy, các chính sách phát triển KDLQG tại vùng du lịch ĐBSH&DHĐB chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau, ảnh hưởng khá lớn đến việc xây dựng và triển khai, thực hiện các chính sách phát triển KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB.

3.4. Đánh giá chung về thực trạng chính sách phát triển các khu du lịch quốc gia thuộc vùng du lịch Đồng bằng Sông Hồng và Duyên hải Đông Bắc

3.4.1. Thành công và nguyên nhân

3.4.1.1. Thành công

Trong những năm vừa qua, việc thực hiện các chính sách phát triển các KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB đã đạt được một số thành công sau:

* Về hệ thống chính sách phát triển KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB:

- Hệ thống các chính sách cho phát triển du lịch tại các địa phương có KDLQG ngày một hoàn thiện, giúp cho các cấp quản lý và các chủ thể tham gia vào ngành yên tâm phát triển.

- Các chính sách phát triển các KDLQG vùng du lịch ĐBSH&DHĐB đang từng bước phát huy tác dụng, về cơ bản đạt được những mục tiêu đề ra của ngành và các cấp quản lý. Dưới đây là một số chính sách tiêu biểu được đề cập đến:

Trong điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều biến động do rủi ro từ môi trường kinh doanh, cụ thể là do tình trạng dịch bệnh COVID-19 (xảy ra từ cuối năm 2019 đến nay), nhiều doanh nghiệp kinh doanh du lịch rơi vào hoàn cảnh bế tắc và khó khăn trong kinh doanh, các chính sách kích cầu cùng với gói kích cầu được Nhà nước và cơ quản QLNN tại địa phương đưa ra đã khích lệ và tạo dựng niềm tin cho doanh nghiệp, hỗ trợ các doanh nghiệp giải quyết khủng hoảng trước mắt, duy trì và tạo điều kiện giúp doanh nghiệp kinh doanh du lịch vượt qua giai đoạn này.

Chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch và chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch đang là chính sách được chú trọng triển khai và thực hiện. Các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB đã tổ chức các chương trình đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ hướng dẫn du lịch, nâng cao trình độ kỹ năng cho các nhân viên


trong ngành du lịch của địa phương. Năng lực đội ngũ nhân viên của ngành du lịch được nâng lên kết hợp với chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch đã tạo ra sức thu hút, cạnh tranh với cả nước, các địa phương đã thu hút khách du lịch tham gia trực tiếp vào các hoạt động sinh hoạt lễ hội, thăm quan thắng cảnh, văn hóa văn nghệ, ẩm thực và đời sống sản xuất của cộng đồng dân cư, thể hiện thông qua số lượt khách tăng lên không ngừng qua các năm như đã phân tích ở trên. Việc triển khai các chính sách đào tạo và phát triển nhân lực đã kích thích các cán bộ nhân viên trong ngành du lịch tại các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB chủ động nâng cao năng lực.

Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch của một số điểm du lịch trong phạm vi các KDLQG được quy hoạch thuộc vùng ĐBSH&DHĐB được quan tâm, kèm với chính sách kinh tế, chính sách xây dựng SPDL mới khá hợp lý đã hình thành một số điểm, tuyến du lịch hấp dẫn. Trên cơ sở đó, trong thời gian vừa qua, các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB đã xây dựng được một số sản phẩm mới, có sức hấp dẫn và đáp ứng được nhu cầu của du khách.

Bên cạnh đó, chính sách liên kết, hợp tác phát triển du lịch nhằm mở rộng quan hệ hợp tác giữa các tỉnh có KDLQG với các địa phương lân cận và các điểm đến khác trong khu vực Đông Nam Á cũng đã được chú trọng.

* Về quy trình chính sách: Về cơ bản, các chính sách được xây dựng và ban hành theo đúng quy trình, tổ chức thực hiện chính sách khá hợp lý, có kiểm tra, thanh tra, đánh giá và điều chỉnh chính sách theo tình hình thực tế, nhận được sự đồng thuận nói chung của các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư địa phương, thu được những thành quả nhất định về phát triển du lịch tại địa phương có KDLQG.

3.4.1.2. Nguyên nhân của thành công

Có nhiều nguyên nhân về những thành công của chính sách. Qua nghiên cứu và phân tích thực trạng chính sách phát triển các KDLQG thuộc Vùng du lịch ĐBSH&DHĐB, có thể đưa ra một số nguyên nhân của thành công nổi trội sau:

Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chủ trương, định hướng phát triển du lịch nói riêng của từng địa phương đã tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, trong đó có kinh tế du lịch. Trong quá trình triển khai các chính sách phát triển KDLQG, các địa phương đã thực hiện phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Các địa phương thuộc Vùng đã có cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực, tăng cường đầu tư phát triển du lịch để phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, hoặc kinh tế quan trọng của địa phương. Các văn bản pháp luật về du lịch và các lĩnh vực liên quan đã từng bước được cải thiện,


tạo hành lang pháp lý cho các ngành, các cấp, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động đầu tư, kinh doanh và quản lý du lịch tại các địa phương được thuận lợi.

Trình độ nhận thức và năng lực của cơ quan quản lý tại địa phương thuộc vùng ĐBSH&DHĐB cũng là yếu tố góp phần không nhỏ trong sự thành công của chính sách và quy trình chính sách phát triển KDLQG ở một mức độ nhất định. Sự thống nhất về quan điểm trong công tác lãnh đạo trong từng địa phương thuộc Vùng, giữa các Sở, ngành, sự ổn định về chính trị đã tạo đà cho các ngành kinh tế phát triển, trong đó có du lịch. Nhờ đó, các văn bản chỉ đạo và hướng dẫn đã bao quát được một số vấn đề cấp bách và thời sự của hoạt động du lịch, nhất là những tác động quan trọng trong quá trình thực thi chính sách, tạo sự thay đổi kịp thời về mục tiêu, phương pháp thực hiện chính sách, nhanh chóng đáp ứng được yêu cầu về phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB.

Nguồn TNDL đa dạng cùng với sự đảm bảo điều kiện cơ bản của CSHT và CSVCKT du lịch đã tạo điều kiện kích thích nhu cầu du lịch tới các địa phương có KDLQG thuộc Vùng. Đây là động lực không nhỏ thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư du lịch, qua đó, thu hút sự quan tâm chú ý của doanh nghiệp, khách du lịch và cộng đồng địa phương, qua đó đã góp phần quan trọng vào sự thành công trong phát triển du lịch tại đây.

Nhận thức của dân cư địa phương và các đối tượng có liên quan cũng là nguyên nhân tạo nên sự thành công của chính sách phát triển du lịch tại đây. Các địa phương có KDLQG đã thực hiện cơ bản công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch, bảo vệ, tôn tạo giá trị TNDL để phát triển du lịch, tuy nhiên, nó chỉ thực sự thành công và triển khai hiệu quả chính sách khi có sự đóng góp của các đối tượng liên quan. Cụ thể, cộng đồng dân cư hưởng ứng tham gia, khôi phục và phát huy một số loại hình văn hoá, nghệ thuật dân gian, ngành nghề thủ công truyền thống, sản xuất hàng hoá của địa phương phục vụ khách du lịch, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân địa phương. Các doanh nhân ủng hộ các chính sách phát triển du lịch và có điều chỉnh hướng kinh doanh hợp lý. Trong quá trình thực hiện chính sách phát triển KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB, các lãnh đạo địa phương đã hăng hái, chủ động và quyết tâm trong việc hiện thực hóa các chính sách phát triển du lịch tại địa phương.

3.4.2. Hạn chế và nguyên nhân

3.4.2.1. Hạn chế

Bên cạnh những ưu điểm, chính sách phát triển du lịch tại các KDLQG thuộc


vùng ĐBSH&DHĐB có những hạn chế sau:

* Về hệ thống chính sách phát triển các KDLQG vùng ĐBSH&DHĐB: Trong chính sách phát triển du lịch, các chính sách bộ phận còn nhiều bất cập như:

- Chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch mặc dù đã được thực hiện nhưng môi trường du lịch vẫn đang bị ô nhiễm, gây ảnh hưởng đến cảnh quan cũng như cảm nhận của du khách,...

- Chính sách tài chính đã đưa ra nhưng hoạt động giải ngân chậm khiến cho đa số các dự án chậm tiến độ, một số dự án phát triển du lịch có ngân sách được cấp không đủ để thực hiện;

- Chính sách kích cầu du lịch mặc dù có ý nghĩa quan trọng nhưng việc tiếp cận của doanh nghiệp với các gói hỗ trợ còn hạn chế, thủ tục xin hỗ trợ còn chưa nhanh gọn, ngoài ra các chương trình kích cầu của Chính phủ và địa phương đã được triển khai nhưng do bản thân các doanh nghiệp kinh doanh vừa trải qua giai đoạn khó khăn, vẫn chưa thể chủ động cung ứng các SPDL đồng bộ và chất lượng;

- Chính sách đào tạo và phát triển NNL du lịch đã thực hiện, nhưng trình độ NNL du lịch địa phương vẫn còn hạn chế, chưa đảm bảo tốt về chất lượng và số lượng;

- Chính sách đầu tư CSHT và CSVCKT du lịch mặc dù đã được quan tâm tuy nhiên do mỗi một địa phương trong Vùng có đặc điểm về kinh tế và tài nguyên khác nhau nên vẫn còn tồn tại tình trạng tại một số địa phương chưa thu hút được đầu tư đúng mức để đảm bảo điều kiện phát triển du lịch nói chung và phát triển KDLQG tại địa phương đó nói riêng.

- Chính sách phát triển SPDL được một số địa phương trong vùng triển khai khá hiệu quả, tạo ra các SPDL mới, mang tính đặc thù và hấp dẫn. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn có một số các địa phương khác chưa có sự sáng tạo, đổi mới trong kinh doanh và phát triển SPDL, các SPDL đơn điệu là một trong những lý do làm cho lượng khách đến không cao.

- Chính sách xúc tiến, quảng bá du lịch đã ban hành nhưng chưa thực sự được quan tâm, vì địa phương chưa đủ điều kiện thực hiện quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp;

* Về quy trình chính sách: Đa số các chính sách trong quy trình triển khai thực hiện còn bộc lộ nhiều hạn chế như tuyên truyền, thực hiện chính sách còn chậm trễ, quá trình triển khai kết hợp giữa lợi ích của người dân và Nhà nước chưa hợp lý nên kết quả thực hiện thu được hơn dự kiến. Dưới đây là một số bất cập nổi bật của một số chính sách trong quá trình triển khai chính sách phát triển du lịch của các địa phương.


- Trong xây dựng và ban hành chính sách, việc xây dựng và ban hành các chính sách phát triển du lịch đặc thù dành riêng cho các KDLQG là chưa có, các chính sách phát triển du lịch tại KDLQG hiện nay đều là các chính sách phát triển du lịch chung của địa phương, làm cho các chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng chưa thể hiện được tính đặc thù, ưu tiên và riêng biệt.

- Trong tổ chức và thực hiện chính sách, các chính sách khi triển khai còn nhiều bất cập, cụ thể:

Trong chính sách xúc tiến du lịch, phối hợp hoạt động của các thành viên Ban chỉ đạo các cấp của các địa phương vùng ĐBSH&DHĐB trong việc quảng bá, giới thiệu SPDL đặc thù của địa phương còn chưa đồng bộ; công tác tuyên truyền, quảng bá bộc lộ nhiều hạn chế; việc sản xuất, xuất bản các ấn phẩm nhằm giới thiệu những giá trị TNDL chưa phổ biến, chưa đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người dân và du khách.

Trong chính sách phát triển SPDL, các địa phương vùng ĐBSH&DHĐB chưa có cơ chế riêng khuyến khích các doanh nghiệp du lịch đầu tư phát triển sản phẩm mới. Các sản phẩm phục vụ du khách chưa phong phú, khả năng cạnh tranh chưa cao, chủ yếu tập trung ở việc khai thác các yếu tố tài nguyên có sẵn, mà thiếu các điểm vui chơi giải trí hấp dẫn. Hoạt động lữ hành, đặc biệt là lữ hành quốc tế chưa hiệu quả. Bên cạnh đó, mức độ hỗ trợ cho chính sách phát triển SPDL tại một số địa phương vẫn được xem là yếu và thiếu. Cụ thể là hỗ trợ vật chất cho nghệ nhân truyền dạy văn hóa dân gian còn quá thấp; thiếu chính sách hỗ trợ kết nối doanh nghiệp du lịch với làng nghề trong việc sáng tạo, thiết kế và cung ứng các SPDL hiện có và sản phẩm mới;…

Trong chính sách bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, các địa phương có KDLQG thuộc vùng ĐBSH&DHĐB chưa thực sự tập trung quan tâm chuyên sâu đến hoạt động bảo tồn, tôn tạo tài nguyên và môi trường du lịch, kinh phí thực hiện cũng rất thấp. Việc tổ chức triển khai và nghiên cứu chuyên sâu về các giá trị TNDL đặc trưng của địa phương chưa được thực hiện hiệu quả.

Như vậy, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhiều, nhưng những văn bản hướng dẫn cụ thể thì không rõ ràng, chồng chéo, dẫn đến khi thực hiện chính sách phát triển du lịch thì các cơ quan quản lý khó nắm được trách nhiệm của mình đến đâu, việc thanh tra giám sát và quy trách nhiệm của các cấp còn gặp nhiều khó khăn.

Bên cạnh đó, việc phối kết hợp giữa các ngành, các cấp trong lĩnh vực liên quan đến du lịch trong tổ chức thực hiện chính sách còn chưa tốt. Hợp tác giữa các


cơ quan QLNN còn khá yếu, nên việc thực thi chính sách gặp nhiều khó khăn, nhất là các cơ quan liên quan đến tổ chức tuyên truyền chính sách; chưa chú trọng đến phổ biến nội dung chính sách, nên nhiều chủ trương, chính sách phát triển du lịch chưa đi vào đời sống của người dân địa phương.

Trong triển khai các chính sách, sự hạn chế về ngân sách của một số địa phương vùng ĐBSH&DHĐB dẫn tới sự thiếu hụt về kinh phí (như Hải Dương, Vĩnh Phúc,…), nên việc triển khai các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch chưa hiệu quả.

- Trong nội dung kiểm tra, thanh tra chính sách: Việc giám sát và đảm bảo thực hiện chính sách tại các địa phương còn gặp nhiều khó khăn, các dự án phát triển du lịch đa số chưa triển khai được hoặc đang triển khai chậm, thậm chí là có hiện tượng cố ý sai phạm. Sự xử lý, điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của địa phương cũng chưa được chú trọng kịp thời, nhiều sai phạm không được xử lý ngay và xử lý triệt để, gây tác động tiêu cực tới tài nguyên địa phương và ảnh hưởng đến phát triển kinh tế địa phương.

3.4.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

Qua quan sát thực tế và từ kết quả nghiên cứu thực trạng chính sách phát triển KDLQG thuộc Vùng, NCS nhận thấy nguyên nhân của những hạn chế tồn tại trên được thể hiện ở một số mặt sau:

Trình độ nhận thức và năng lực chuyên môn của các cấp, các ngành trong cơ quan QLNN tại các địa phương có KDLQG vẫn còn nhiều hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ vai trò của KDLQG nên chưa có sự đầu tư, quan tâm thích đáng, đúng mức. Nhiều KDLQG chưa thành lập BQL chuyên ngành riêng, hoạt động theo một (hoặc một vài) mô hình quản lý chung; công tác quản lý được giao cho nhiều cấp khác nhau, vì vậy còn gặp nhiều khó khăn, chưa đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và tính chuyên nghiệp, còn xung đột lợi ích giữa các cấp, các ngành; khó có thể đảm bảo tính chuyên nghiệp, hiệu quả cao trong quản lý phát triển du lịch nếu giao nhiệm vụ này cho một BQL khu kinh tế hay BQL quần thể danh thắng - vốn không phải là đơn vị chuyên trách trong lĩnh vực du lịch.

Tình trạng vướng mắc, chồng chéo trong công tác quản lý còn diễn ra ở hầu hết các KDLQG. Cụ thể: sự chồng chéo giữa quản lý hành chính với quản lý du lịch; giữa quản lý ngành du lịch với các ngành khác, lĩnh vực khác như tài nguyên và môi trường, kinh tế và du lịch, quản lý danh thắng,... Một số KDLQG nằm trên địa giới hành chính của nhiều địa phương (Hải Phòng – Quảng Ninh), do vậy công tác quản lý càng khó khăn hơn, phức tạp hơn, tạo nên xung đột lợi ích theo lãnh thổ hành

Xem tất cả 195 trang.

Ngày đăng: 16/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí