lập quy hoạch ĐNTBM chung của cả trường. Trên thực tế, sự thay đổi của ĐNTBM không lớn trong trường ĐHĐHNC. Số lượng các bộ môn khá ổn định và giữ nguyên trong vòng 3 năm gần đây. Số lượng TBM giảm thường do nguyên nhân: chuyển công tác, đến tuổi nghỉ quản lý/nghỉ hưu, tham gia các khoá học dài hạn ngoài nước.
Bảng 2.28: Đánh giá mức độ thực hiện công tác quy hoạch trưởng bộ môn theo đối tượng khảo sát
Hiệu quả | Khá hiệu quả | Không có ý kiến | Ít hiệu quả | Không hiệu quả | ĐTB | Tổng | ||||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | |||
Tổng | 150 | 33,5 % | 180 | 40,20 % | 31 | 7,10 % | 74 | 16,5 % | 12 | 2,7 % | 3,85 | 448 |
Cán bộ quản lý cấp trường | 27 | 35,1 % | 32 | 41,6 % | 5 | 6,5 % | 10 | 13,0 % | 3 | 3,9 % | 3,91 | 77 |
Trưởng bộ môn | 54 | 40,9 % | 54 | 40,9 % | 6 | 4,5 % | 17 | 12,9 % | 1 | 0,8 % | 4,08 | 132 |
Giảng viên | 69 | 28,9 % | 94 | 39,3 % | 20 | 8,4 % | 47 | 19,7 % | 9 | 3,8 % | 3,70 | 239 |
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Về Kỹ Năng Nckh Và Tổ Chức Nckh Của Đntbm
- Đánh Giá Về Năng Lực Phân Tích Và Dự Báo Của Đntbm
- Đánh Giá Về Lòng Yêu Nghề Và Tận Tuỵ Với Nghề
- Đánh Giá Hiệu Quả Công Tác Bố Trí, Sử Dụng Tbm
- Tổng Hợp Các Tiêu Chí Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Đntbm
- Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Trưởng Bộ Môn Trong Trường Đại Học Định Hướng Nghiên Cứu Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 260 trang tài liệu này.
Nguồn: Khảo sát của NCS năm 2018
Hầu hết những người tham gia khảo sát đều cho rằng công tác này đã được thực hiện tại nhà trường. Chỉ có 2,68% cho là chưa thực hiện hiệu quả. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy 35,94% ý kiến cho rằng công tác quy hoạch ĐNTBM được thực hiện tốt và có hiệu quả. Qua phỏng vấn sâu đối với các cấp quản lý trong nhà trường, thực tế công tác này ở các trường ĐHĐHNC chưa thực sự phát huy hiệu quả, việc quy hoạch mới chỉ đồng nhất với dự báo nhu cầu cán bộ, mà chưa mang tính chiến lược lâu dài, toàn diện; chưa gắn quy hoạch với việc ĐT-BD hay bố trí, sử dụng. Việc quy hoạch được tiến hành theo quy định nhưng mang tính chiếu lệ, không có sự chủ động, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nhà trường, thiếu sự kết nối giữa các thế hệ lãnh đạo. Đôi khi các khoa hoặc bộ môn bị động trong việc quy hoạch TBM. Khi có biến động về TBM, họ mới tìm người thay thế “phù hợp” nhất có thể và đôi khi chỉ đáp ứng một vài điều kiện “bắt buộc”. Trên thực tế, có những bộ môn chỉ có 2-3 người, nên quy hoạch TBM là tất cả giảng viên dẫn đến tình trạng không có nhiều sự lựa chọn. Thậm chí, việc quy hoạch TBM ở một số trường là do Phòng Tổ chức Cán bộ thực hiện để đảm bảo nhiệm vụ mà không thông qua lấy ý kiến của khoa hay các giảng viên. Điều này được
thể hiện có tới 44,87% ý kiến cho rằng hiệu quả công tác này chưa cao và 16,52% cho rằng chưa có hiệu quả. Đây là một trong số những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC đủ về số lượng nhưng vẫn gặp phải những hạn chế về chất lượng, đặc biệt trong phát triển đội ngũ.
Đánh giá riêng của từng nhóm đối tượng khảo sát thì chỉ có các TBM cho rằng công tác quy hoạch là hiệu quả cao với điểm trung bình là 4,08. Nhóm giảng viên thì đánh giá thấp hơn nhiều với điểm trung bình chỉ là 3,7. Họ cũng chỉ ra thực tế việc quy hoạch có nhiều bất cập theo quy định và mang tính hình thức cao. Vị trí TBM gần như được định hướng quy hoạch từ cấp trên xuống từ trước và không có nhiều sự lựa chọn cho các giảng viên trong bộ môn.
2.5.2.2. Tuyển chọn đội ngũ trưởng bộ môn
Các trường ĐHĐHNC luôn xác định công tác tuyển chọn ĐNTBM là việc làm thường xuyên và rất quan trọng, nhằm đảm bảo cho đội ngũ đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý, đồng thời tạo động lực kích thích tinh thần trách nhiệm cho ĐNTBM cũng là điều kiện để duy trì chất lượng và hiệu quả sự nghiệp đào tạo, NCKH của trường.
Cơ sở tuyển chọn ĐNTBM của các trường ĐHĐHNC gồm hai vấn đề chính:
- Thứ nhất, là yêu cầu nhân lực của nhà trường. Với chủ trương công tác tuyển chọn TBM phải được tiến hành quy củ, đồng bộ, cuối mỗi năm nhà trường đều xem xét sự thay đổi của ĐNTBM và lập kế hoạch bù đắp hay thuyên chuyển nếu cần thiết. Việc tuyển chọn TBM cho cả năm đối với tất cả các khoa dựa trên kế hoạch đề xuất của từng khoa đưa lên và quy hoạch TBM đã phê duyệt. Khi một bộ môn bị trống TBM, khoa sẽ gửi đề xuất lên trường để Ban giám hiệu tuyển chọn và quyết định TBM trong những người được quy hoạch (chọn 1 trong 3) dựa trên việc lấy phiếu giới thiệu và tín nhiệm của những người trong quy hoạch. Tuy nhiên, cũng có trường hợp TBM được tuyển dụng từ bên ngoài về nếu những người trong danh sách quy hoạch chưa đảm bảo yêu cầu hoặc không có người trong danh sách quy hoạch phù hợp.
- Thứ hai, là yêu cầu tiêu chuẩn công việc. Hiện nay, khi tuyển chọn các vị trí TBM, nhà trường luôn đưa ra các tiêu chí là yêu cầu chung theo chuẩn của Bộ GD&ĐT và những yêu cầu riêng theo đặc thù của khoa, trường. Trình độ thấp nhất của TBM là tiến sĩ và phải có kinh nghiệm giảng dạy ĐH, có khả năng NCKH từ 02 năm trở lên, có khả năng quản lý.
Thông thường các trường ĐHĐHNC không yêu cầu cụ thể về giới tính, độ tuổi mà chỉ chú trọng vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, khả năng lãnh đạo, quản lý và mong muốn phát triển của người được tuyển chọn.
Các trường ĐHĐHNC luôn mong muốn xây dựng được ĐNTBM có đủ năng lực trình độ, lĩnh vực sở trường, nhằm phát huy cao nhất hiệu quả của nhà trường là nâng cao chất lượng giảng dạy của giảng viên, chất lượng của người học tốt nghiệp, nâng cao năng lực NCKH và chuyển giao công nghệ, từ đó nâng cao uy tín và vị thế của trường, đóng góp cho nền GD&ĐT chung của quốc gia và nhân loại.
Quy trình tuyển chọn được tiến hành theo quy định rất chặt chẽ. Nhà trường cũng có sự phân công trách nhiệm và quyền hạn tuyển chọn TBM rất rõ ràng; đồng thời quy định thủ tục, trình tự tuyển chọn, bố trí TBM vào công việc. Cụ thể:
- Thứ nhất, về trách nhiệm tuyển chọn. Việc tuyển chọn được giao cho bộ môn và khoa đảm nhiệm dựa trên các tiêu chí mà nhà trường đã đặt ra. Các trường ĐHĐHNC thuộc ĐHQGHN đã triển khai phân cấp quản lý cho các khoa. Trong đó, các khoa có nhiệm vụ xây dựng và phát triển ĐNTBM của đơn vị mình và đề xuất cho nhà trường trên cơ sở họp dân chủ, lấy ý kiến của toàn khoa.
- Thứ hai, về quy trình tuyển chọn. Nhà trường thực hiện tuyển chọn theo các bước sau:
+ Đầu năm, căn cứ vào nhu cầu thực tế và những định hướng phát triển của trường, các khoa đề xuất nhu cầu tuyển cũng như đề xuất TBM cho vị trí còn thiếu và gửi về Phòng Tổ chức Cán bộ, trong đó nêu rõ tiêu chuẩn mà ứng viên phải đáp ứng.
+ Sau khi tập hợp được danh sách đề nghị của các đơn vị, trường thành lập Hội đồng tuyển chọn gồm các thành viên là thủ trưởng các đơn vị đào tạo và trưởng các phòng ban chức năng liên quan. Hội đồng tuyển chọn tiến hành họp, nghiên cứu hồ sơ và ra quyết định cuối cùng cho những ứng viên đạt yêu cầu.
+ Nhà trường ra quyết định tuyển chọn các TBM phù hợp trong quy hoạch.
Kết quả khảo sát cho thấy công tác tuyển chọn TBM được 35% số người được hỏi đánh giá là rất phù hợp; 43,97% là khá phù hợp; chỉ có 2,68% là không phù hợp. Như vậy, có thể thấy công tác tuyển chọn TBM thường ít khi từ nguồn bên ngoài, mà chủ yếu dựa trên bản quy hoạch đã có sự thống nhất dân chủ trong khoa là hợp lý.
Ít đồng ý, 10.94%
Không đồng ý,
2.68%
Trung lập, 7.37%
Rất đồng ý,
35.04%
Khá đồng ý,
43.97%
Nguồn: Khảo sát thống kê của NCS năm 2018
Biểu đồ 2.7: Đánh giá mức độ phù hợp của công tác tuyển chọn TBM
Đánh giá riêng của từng nhóm tham gia khảo sát thì không có quá nhiều chênh lệch. Mặc dù nhóm giảng viên đánh giá hiệu quả công tác tuyển chọn thấp nhất nhưng vẫn ở mức khá cao với điểm trung bình là 3,93. Nhóm cán bộ quản lý cấp trường thì đánh giá ở mức trung bình là 3,97. Lý do họ đưa ra là đôi khi việc lựa chọn TBM không chỉ dựa vào các tiêu chuẩn mà còn phải dựa vào thực tế của bộ môn. Có người phù hợp thì họ từ chối không làm hoặc vì một lý do nào đó đã không được tuyển chọn. Số lượng giảng viên trong bộ môn ít cũng là một hạn chế đối với công tác tuyển chọn TBM bởi rất hiếm khi TBM được tuyển chọn trực tiếp từ bên ngoài.
Bảng 2.29: Đánh giá mức độ hiệu quả của công tác tuyển chọn trưởng bộ môn theo đối tượng khảo sát
Phù hợp | Khá phù hợp | Không có ý kiến | Ít phù hợp | Không phù hợp | ĐTB | Tổng | ||||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | |||
Tổng | 157 | 35,04 % | 197 | 43,97 % | 33 | 7,37 % | 49 | 10,94 % | 12 | 2,68 % | 3,98 | 448 |
Cán bộ quản lý cấp trường | 28 | 36,4 % | 32 | 41,6 % | 6 | 7,8 % | 9 | 11,7 % | 2 | 2,6 % | 3,97 | 77 |
Trưởng bộ môn | 49 | 37,1 % | 62 | 47,0 % | 7 | 5,3 % | 8 | 6,1 % | 6 | 4,5 % | 4,06 | 132 |
Giảng viên | 80 | 33,5 % | 103 | 43,1 % | 20 | 8,4 % | 32 | 13,4 % | 4 | 1,7 % | 3,93 | 239 |
Nguồn: Khảo sát của NCS năm 2018
2.5.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trưởng bộ môn
Cùng với sự thay đổi của KH&CN, KT-XH, sự nghiệp đổi mới GDĐH đòi hỏi cả giảng viên lẫn CBQL đều phải ĐT-BD thường xuyên nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc; hướng tới mục tiêu là tạo được sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ của nhà trường. ĐT-BD cần tập trung trang bị những kiến thức, kỹ năng, thái độ thực hiện công việc cho TBM, trong đó cung cấp những kiến thức, lý luận cơ bản về chính trị, quản lý, nâng cao trình độ chuyên môn, trang bị kỹ năng, cách thức hoạt động, giáo dục thái độ thực hiện công việc thể hiện sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm của người quản lý trong trường.
Thời gian qua, công tác ĐT-BD cho ĐNTBM của các trường ĐHĐHNC chưa được quan tâm nhiều. Bởi các TBM trong trường ĐHĐHNC thuộc ĐHQGHN đều là các tiến sĩ và phải đảm bảo một trình độ ngoại ngữ, tin học nhất định nên nhà trường không có chương trình cử TBM đi học các khoá đào tạo dài hạn để nâng cao bằng cấp, mà chỉ tạo điều kiện nếu các TBM tìm kiếm cơ hội ĐT-BD ở nước ngoài. Riêng đối với các TBM là tiến sĩ có điều kiện xin xét học hàm phó giáo sư hoặc giáo sư sẽ được nhà trường hỗ trợ, nhất là về thủ tục hành chính. Như vậy, để nâng cao trình độ, kỹ năng cho ĐNTBM, các trường ĐHĐHNC tập trung chủ yếu vào công tác ĐT-BD ngắn hạn qua các lớp kỹ năng. Ngoài việc khuyến khích các giảng viên phải luôn tham gia các lớp ĐT-BD nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng phù hợp, nhà trường còn tổ chức hoặc cử giảng viên đi ĐT-BD khi thấy cần thiết. Chính vì vậy, nếu xét việc ĐT-BD riêng cho ĐNTBM thì có đến 8,93% số người tham gia phỏng vấn đã trả lời là chưa được thực hiện. Các TBM được ĐT-BD với các chương trình chung của giảng viên hoặc CBQL.
Các hình thức ĐT-BD cho ĐNTBM được thực hiện trong nhà trường gồm:
- ĐT-BD tại trường: Bao gồm các lớp học kỹ năng về quản lý, quản trị ĐH, nghiệp vụ dành cho CBQL do nhà trường tổ chức. Bên cạnh đó, các khoa còn thường xuyên thực hiện ĐT-BD thông qua các cuộc họp chuyên môn để trao đổi, rút kinh nghiệm, phát hiện những thiếu sót và bồi dưỡng kịp thời về nghiệp vụ cho các TBM. Ngoài ra, tuỳ theo nhu cầu của công việc, nhu cầu ĐT-BD cụ thể, nhà trường sẽ tổ chức các lớp học tập trung tại trường, như các lớp nâng cao khả năng ngoại ngữ, nghiệp vụ tin học (sử dụng internet, tin học văn phòng, bài giảng điện tử, online…).
- ĐT-BD ngoài trường: Nhà trường luôn khuyến khích ĐNTBM tự nâng cao trình độ ở bên ngoài, như cử TBM đi học các lớp nghiệp vụ sư phạm; trung cấp, cao cấp lý luận chính trị, quốc phòng an ninh; tổ chức các chuyến tham quan học tập, trao đổi kinh nghiệm tại các trường ĐH trong và ngoài nước.
Bảng 2.30: Thống kê số lượng các khoá ĐT-BD ngắn hạn dành cho TBM
Năm tổ chức ĐT-BD | ||||
2016 | 2017 | 2018 | 2019 | |
Kỹ năng QLGD, quản trị ĐH | 6 | 8 | 6 | 6 |
Kỹ năng tổ chức NCKH | 0 | 0 | 2 | 0 |
Kỹ năng phát triển chương trình đào tạo | 2 | 0 | 0 | 0 |
Kỹ năng hợp tác quốc tế | 0 | 0 | 0 | 0 |
Kỹ năng triển khai và đăng bài quốc tế | 0 | 0 | 4 | 4 |
Kỹ năng lãnh đạo tổ chức | 6 | 8 | 7 | 10 |
Kỹ năng phát triển mối quan hệ xã hội và hỗ trợ cộng đồng | 0 | 0 | 0 | 0 |
Nguồn: NCS khảo sát ở 06 trường ĐHĐHNC của ĐHQGHN
Theo thống kê các khoá ĐT-BD ngắn hạn có thể thấy không phải kỹ năng nào nhà trường cũng tổ chức bồi dưỡng cho ĐNTBM. Kỹ năng QLGD, quản trị ĐH được quan tâm nhiều nhất. Các trường mỗi năm đều tổ chức một lớp dành cho CBQL cấp bộ môn và cấp khoa. Riêng năm 2017, Trường ĐH Kinh tế và Trường ĐH Công nghệ tổ chức 02 lớp. Kỹ năng tổ chức NCKH không được quan tâm bồi dưỡng. Các TBM được mặc định có đủ khả năng tổ chức NCKH cho giảng viên trong bộ môn. Duy chỉ có Trường ĐH Kinh tế, Trường ĐH Công nghệ là tổ chức lớp học này vào năm 2018.
Kỹ năng phát triển chương trình đào tạo cũng không được quan tâm bồi dưỡng cho TBM trong khi đây là một kỹ năng quan trọng. Đến nay, các TBM ít chủ động thực hiện phát triển chương trình đào tạo, mà thường chỉ làm theo yêu cầu của nhà trường. Đây là một điểm yếu trong công tác ĐT-BD cho ĐNTBM. Tương tự, các khoá bồi dưỡng về kỹ năng hợp tác quốc tế, kỹ năng phát triển mối quan hệ xã hội và hỗ trợ cộng đồng cũng không được tổ chức. Riêng kỹ năng triển khai và đăng bài quốc tế, năm 2018 và 2019, có Trường ĐH Kinh tế, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, Trường ĐH Khoa
học Xã hội và Nhân văn quan tâm và tổ chức để giúp cho các TBM cũng như các giảng viên có thể phát triển năng lực NCKH ở tầm quốc tế.
Riêng các khoá học cao cấp lý luận chính trị, quốc phòng an ninh thì vẫn được các trường quan tâm cử đi học theo đúng quy định ở các đợt khác nhau trong các năm.
Bảng 2.31: Khảo sát công tác ĐT-BD dành cho TBM
Đồng ý | Khá đồng ý | Không có ý kiến | Ít đồng ý | Không đồng ý | ||||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | |
Chính sách khuyến khích TBM học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của trường hiện nay là hiệu quả. | 67 | 14,96 % | 143 | 31,92 % | 85 | 18,97 % | 121 | 27,01 % | 32 | 7,14 % |
Chính sách hỗ trợ TBM học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ của trường hiện nay là hợp lý. | 90 | 20,09 % | 161 | 35,94 % | 72 | 16,07 % | 98 | 21,88 % | 27 | 6,03 % |
Việc tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng cho giảng viên của trường hiện nay là hợp lý | 103 | 22,99 % | 170 | 37,95 % | 63 | 14,06 % | 89 | 19,87 % | 23 | 5,13 % |
Các hình thức bồi dưỡng cho giảng viên của nhà trường hiện nay là phù hợp | 88 | 19,64 % | 139 | 31,03 % | 72 | 16,07 % | 112 | 25,00 % | 37 | 8,26 % |
Tự bồi dưỡng của các TBM là hiệu quả | 152 | 33,93 % | 134 | 29,91 % | 31 | 6,92 % | 95 | 21,21 % | 36 | 8,04 % |
Nguồn: Khảo sát của NCS năm 2018
Theo khảo sát, chính sách khuyến khích ĐNTBM học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ của các trường ĐHĐHNC không được đánh giá cao. Chỉ có 14,96% đồng ý với nhận định chính sách này hiệu quả; 31,92% khá đồng ý; 27% ít đồng ý và 7,14% không đồng ý. Có kết quả này là do các yêu cầu đối với TBM về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học… và đây là điều kiện cần thiết tối thiểu mà bất kỳ TBM nào cũng phải đảm bảo. Đối với một số TBM có nhu cầu được ĐT-BD nâng cao trình độ, nhà trường có thể khuyến khích, tạo điều kiện thực hiện.
Tương tự, đánh giá về chính sách hỗ trợ TBM học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ hợp lý thì có 20% đồng ý; 35,94% khá đồng ý; 21,88% ít đồng ý và 6% không đồng ý. Các TBM cho rằng cần phải thiết kế thêm những khoá học thiết thực hơn. Riêng hoạt động ĐT-BD ngắn hạn về nghiệp vụ quản lý, lý luận chính trị… còn khá ít và nội dung chưa thật sự thuyết phục. Các hình thức ĐT-BD hiện nay cũng được đánh giá không cao về mức độ phù hợp.
Việc tự ĐT-BD cũng được ĐNTBM quan tâm thực hiện, điều này cho thấy họ có nhận thức khá tốt về vấn đề tự phát triển bản thân. Tuy nhiên, việc đánh giá mới chỉ dừng lại ở 33,93% số người được hỏi đồng ý với nhận định; 29,91% là khá đồng ý; 21,21% ít đồng ý và có đến 8,04% cho là TBM chưa quan tâm tới việc tự ĐT-BD bản thân.
Tuy nhiên, kết quả chung cho thấy đây là công tác chưa được thực hiện tốt trong các hoạt động phát triển ĐNTBM của các trường ĐHĐHNC hiện nay.
2.5.2.4. Bố trí, sử dụng đội ngũ trưởng bộ môn
Việc bố trí, sử dụng ĐNTBM trong đó bao gồm cả việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển, miễn nhiệm… cần sự chính xác, khách quan và phù hợp với năng lực, sở trường của từng TBM mới giúp nâng cao hiệu lực quản lý, hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ trong bộ môn.
Trưởng bộ môn cũng là người tham mưu tích cực và có hiệu quả cho các cấp lãnh đạo trong nhà trường để đưa ra những quyết định thay đổi phù hợp với yêu cầu của xã hội, của nhà trường và người học, vì họ là những người tiếp xúc gần nhất. Từ đó góp phần tích cực vào việc đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo trong sự nghiệp đổi mới GDĐH và hội nhập quốc tế.
Căn cứ vào sự giới thiệu và tín nhiệm của cán bộ trong Hội đồng khoa học và đào tạo của khoa, trưởng khoa đề xuất với Hiệu trưởng để ra quyết định bổ nhiệm (đối với nhân sự trong trường) hoặc ký hợp đồng kiêm nhiệm, thuê (đối với nhân sự ngoài trường, gồm cả nhân sự không mang quốc tịch Việt Nam) để làm TBM. Phần lớn TBM được giới thiệu bổ nhiệm nằm trong danh sách quy hoạch đã được xây dựng và phê duyệt hàng năm, nhưng vẫn có trường hợp ngoại lệ. Thời hạn bổ nhiệm hoặc thuê làm TBM là 05 năm. Sau thời hạn trên, căn cứ kết quả đánh giá hoạt động của bộ môn sẽ quyết định tiếp tục bổ nhiệm lại hoặc thuê làm TBM.