với các đồng nghiệp của mình, chưa thực sự đóng vai trò người quản lý cấp hạt nhân trong trường. Tuy nhiên, phần lớn đánh giá vẫn là mức độ khá và rất tốt. Điểm đánh giá trung bình là 4,1 vẫn ở mức cao.
Như vậy, có thể thấy ĐNTBM đã làm tốt công tác chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều này cũng khẳng định các TBM trong trường ĐHĐHNC đáp ứng tốt yêu cầu về tư tưởng của một người quản lý trong trường ĐH.
2.4.4.2. Đánh giá về lòng yêu nghề và tận tuỵ với nghề
Các TBM trước hết là những giảng viên. Họ là người quản lý với chuyên môn sâu là các học phần hoặc chuyên ngành mà bộ môn nghiên cứu và giảng dạy. Vì vậy, các TBM phải có đầy đủ phẩm chất của một giảng viên.
Bảng 2.24: Đánh giá về lòng yêu nghề và tận tuỵ với nghề của ĐNTBM
Tốt | Khá | Trung bình | Yếu | Kém | ĐTB | ||||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | ||
Đối xử công bằng với người học | 299 | 66,7 % | 70 | 15,6 % | 71 | 15,8 % | 6 | 1,3 % | 2 | 0,4 % | 4,5 |
Hướng dẫn sinh viên trong học tập và NCKH | 251 | 56,0 % | 139 | 31,0 % | 50 | 11,2 % | 8 | 1,8 % | - | 0,0 % | 4,4 |
Tham gia nhiệt tình các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ | 326 | 72,8 % | 56 | 12,5 % | 49 | 10,9 % | 17 | 3,8 % | - | 0,0 % | 4,5 |
Thường xuyên cải tiến phương pháp giảng dạy để nâng cao kết quả học tập của sinh viên | 189 | 42,2 % | 143 | 31,9 % | 53 | 11,8 % | 51 | 11,4 % | 12 | 2,7 % | 4,0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Cấu Đntbm Theo Kinh Nghiệm Quản Lý Và Kinh Nghiệm Giảng Dạy, Nckh
- Đánh Giá Về Kỹ Năng Nckh Và Tổ Chức Nckh Của Đntbm
- Đánh Giá Về Năng Lực Phân Tích Và Dự Báo Của Đntbm
- Đánh Giá Mức Độ Thực Hiện Công Tác Quy Hoạch Trưởng Bộ Môn Theo Đối Tượng Khảo Sát
- Đánh Giá Hiệu Quả Công Tác Bố Trí, Sử Dụng Tbm
- Tổng Hợp Các Tiêu Chí Ảnh Hưởng Đến Phát Triển Đntbm
Xem toàn bộ 260 trang tài liệu này.
Nguồn: Khảo sát của NCS năm 2018
Đánh giá về sự đối xử công bằng với người học, có 66,7% số người được hỏi cho rằng ĐNTBM đã thực hiện tốt, 15,6% đánh giá ở mức độ khá, rất ít người đánh giá ở mức yếu và kém.
Các TBM đều tham gia hướng dẫn sinh viên trong học tập và NCKH. Mặc dù họ là những người quản lý bận rộn nhưng gần như không ai từ chối nhiệm vụ này. Do TBM hầu hết là những người có uy tín trong bộ môn và là những người có trình độ chuyên môn cao nên công tác hướng dẫn sinh viên trong học tập và NCKH được đánh giá tốt, tới 56%; 31% đánh giá là khá và không ai đánh giá ở mức kém. Thông thường,
các TBM hay đạt được kết quả cao trong công tác này cũng là một cách khẳng định về lòng yêu nghề và tận tuỵ với nghề nhà giáo.
Đối với các TBM, việc tham gia nhiệt tình vào các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ là đòi hỏi bắt buộc. Nếu họ không có sự gương mẫu thì rất khó khăn để yêu cầu những thành viên trong bộ môn tham gia và khuyến khích họ nâng cao trình độ chuyên môn. Theo đánh giá của những người tham gia khảo sát, 72,8% cho là các TBM đã thực hiện tốt điều này. Đây là một kết quả khả quan thể hiện phẩm chất của ĐNTBM, đồng thời cũng khẳng định việc lựa chọn các TBM hiện nay trong trường ĐHĐHNC là đúng đắn. Không có ai đánh giá ở mức độ kém và chỉ có 10,9% đánh giá ở mức độ trung bình. Như vậy, đây cũng là một điểm tích cực mà các TBM trong trường ĐHĐHNC có được.
Tuy vậy, việc thường xuyên cải tiến phương pháp giảng dạy để nâng cao kết quả học tập của sinh viên lại không được đánh giá cao như các phẩm chất khác. Chỉ có 42,2% số người được hỏi đánh giá các TBM đã thực hiện tốt việc này; 31,9% đánh giá là khá; 11,8% đánh giá trung bình và 2,7% đánh giá là kém. Lý do dẫn đến kết quả này là có nhiều TBM đã lớn tuổi. Họ quen giảng dạy theo một phương pháp nhất định và không cố gắng tìm kiếm những phương pháp giảng dạy khác hiện đại và hiệu quả hơn mặc dù số lượng này là không lớn. Cùng với các buổi giao lưu, trao đổi chuyên môn và những đánh giá của bộ phận thẩm định chất lượng đào tạo, ĐNTBM vẫn là người phải triển khai việc đổi mới hoạt động giảng dạy trong bộ môn của mình để đạt được hiệu quả cao.
Như vậy, có thể khẳng định ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC hiện nay có đầy đủ phẩm chất về lòng yêu nghề và tận tuỵ với nghề. Mặc dù còn nhiều đánh giá ở mức độ khá nhưng điểm trung bình đánh giá đều trên 4,0 là mức cao. Họ cũng thể hiện được vai trò người đứng đầu chuyên môn của mình, đặc biệt phù hợp với định hướng nghiên cứu mà trường đã đặt ra.
2.4.4.3. Đánh giá về tinh thần trách nhiệm
Các TBM được đánh giá khá cao về tinh thần trách nhiệm. Đặc biệt, có tới 78,1% số người được hỏi đã đánh giá mức độ hoàn thành đầy đủ các công việc được giao của ĐNTBM là tốt, 10,9% là mức độ khá, không ai đánh giá mức độ kém và chỉ
có 0,9% đánh giá là yếu. Điều đó cho thấy các TBM trong trường ĐHĐHNC hiện nay đã thể hiện tốt phẩm chất của một người quản lý.
Bảng 2.25: Đánh giá về tinh thần trách nhiệm trong công tác, đoàn kết hợp tác với đồng nghiệp của ĐNTBM
Tốt | Khá | Trung bình | Yếu | Kém | ĐTB | ||||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | ||
Hoàn thành đầy đủ các công việc được giao | 350 | 78,1 % | 49 | 10,9 % | 45 | 10,0 % | 4 | 0,9 % | - | 0,0 % | 4,7 |
Có tinh thần học hỏi, giúp đỡ đồng nghiệp | 271 | 60,5 % | 112 | 25,0 % | 55 | 12,3 % | 10 | 2,2 % | - | 0,0 % | 4,4 |
Tham gia xây dựng tập thể sư phạm vững mạnh toàn diện | 261 | 58,3 % | 86 | 19,2 % | 77 | 17,2 % | 24 | 5,4 % | - | 0,0 % | 4,3 |
Nguồn: Khảo sát của NCS năm 2018
Không những vậy, họ cũng là người luôn có tinh thần học hỏi, giúp đỡ đồng nghiệp. Có 60,5% số người được hỏi đã khẳng định các TBM tốt trong điều này, 25% cho rằng ở mức độ khá và cũng không ai đánh giá ở mức độ kém. Các TBM thường xuyên tổ chức các buổi họp chuyên môn và trao đổi kinh nghiệm. Ở đây, những giảng viên trong bộ môn có thể chia sẻ và học hỏi lẫn nhau trong giảng dạy cũng như nghiên cứu. Thể hiện tích cực của một số TBM trẻ tuổi được đánh giá khá cao bởi họ luôn phải khẳng định bản thân trước bộ môn.
Bên cạnh đó, TBM còn phải luôn xây dựng tập thể sư phạm vững mạnh. Với sự kiểm soát chặt chẽ về chất lượng đào tạo và nghiên cứu ở các trường ĐHĐHNC, các TBM luôn phải cố gắng để bộ môn mình được đánh giá tốt. Vì thế có tới 58,3% số người được hỏi cho rằng các TBM thực hiện tốt công tác này; 19,2% thì đánh giá ở mức khá; 17,2% ở mức trung bình và không có ai đánh giá mức kém.
Có thể thấy hầu hết các TBM hiện nay trong trường ĐHĐHNC có tinh thần trách nhiệm cao. Họ là những người góp phần giúp các bộ môn vững mạnh, khẳng định vai trò của các bộ môn trong giảng dạy và NCKH ở nhà trường.
2.4.4.4. Đánh giá về lối sống, tác phong và giao tiếp ứng xử
Một nhân tố thể hiện phẩm chất đạo đức của các TBM đó chính là lối sống trung thực, giản dị, lành mạnh, gương mẫu. Lối sống ảnh hưởng trực tiếp từ tính cách, quan điểm, sự hiểu biết từ đó dẫn đến những hành vi, ứng xử của ĐNTBM trong môi trường nhà trường.
Bảng 2.26: Đánh giá về lối sống của ĐNTBM
Đồng ý | Khá đồng ý | Không có ý kiến | Ít đồng ý | Không đồng ý | ĐTB | ||||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | ||
Có lối sống trung thực, giản dị, lành mạnh, gương mẫu với cấp trên, đồng nghiệp, người học | 256 | 57,1 % | 95 | 21,2 % | 86 | 19,2 % | 9 | 2,0 % | 2 | 0,4 % | 4,3 |
Có tinh thần tự phê bình, tiếp thu góp ý từ bên ngoài để hoàn thiện bản thân | 168 | 37,5 % | 95 | 21,2 % | 141 | 31,5 % | 35 | 7,8 % | 9 | 2,0 % | 3,8 |
Cư xử đúng mực, có văn hóa với cấp trên, đồng nghiệp và người học | 216 | 48,2 % | 89 | 19,9 % | 125 | 27,9 % | 13 | 2,9 % | 5 | 1,1 % | 4,1 |
Nguồn: Khảo sát của NCS năm 2018
Hầu hết những người được hỏi đều cho rằng ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC có lối sống trung thực, giản dị, lành mạnh, gương mẫu với cấp trên, đồng nghiệp và người học. Chỉ có 2% ít đồng ý với điều này và 0,4% không đồng ý. Có 37,5% người tham gia phỏng vấn khẳng định các TBM có tinh thần tốt trong tự phê bình, tiếp thu góp ý từ bên ngoài để hoàn thiện bản thân; 21,2% đánh giá là khá đồng ý; 7,8% đánh giá mức ít đồng ý và chỉ có 2% đánh giá không đồng ý với nhận định. Như vậy, có thể thấy ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC hiện nay có lối sống khá tích cực, thể hiện phẩm chất đạo đức khiêm tốn. Việc cư xử với những người xung quanh cũng được đánh giá khá cao với 48,2% đồng ý; 19,9% khá đồng ý; chỉ có 2,9% ít đồng ý và 1,1% không đồng ý. Điều này cho thấy, ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC không chỉ có chuyên môn
vững vàng mà phẩm chất đạo đức, lòng yêu nghề cũng được đánh giá cao. Kết quả trên thể hiện sự dân chủ, phù hợp trong việc lựa chọn những người quản lý cấp đơn vị.
Nhận xét chung:
Các kết quả khảo sát đánh giá về năng lực ĐNTBM trong các trường ĐHĐHNC thuộc ĐHQGHN cho thấy hầu hết ĐNTBM hiện nay đã đáp ứng những yêu cầu cơ bản về năng lực và phẩm chất để có thể thực hiện các nhiệm vụ được giao, là một nhà quản lý chuyên môn tốt.
Ưu điểm của ĐNTBM trong các trường ĐHĐHNC thuộc ĐHQGHN được thể hiện ở các điểm sau:
- Có nhiều năng lực đã đáp ứng yêu cầu như nghiệp vụ sư phạm, năng lực NCKH, quản lý hoạt động dạy học trong bộ môn, xây dựng hệ thống thông tin. Bên cạnh đó, khả năng phân tích dự báo cũng được cho là đã được ĐNTBM đảm bảo.
- Nhiều năng lực được đánh giá cao như trình độ chuyên môn và uy tín trong học thuật, năng lực tự học, sáng tạo, phát triển môi trường giáo dục, khuyến khích các mối quan hệ trong bộ môn và với các bộ môn, phòng ban chức năng, đơn vị chuyên môn khác. Năng lực quản lý hành chính hay kiểm tra sát sao các công việc hay thiết kế, định hướng phát triển bộ môn cũng được đánh giá cao ở ĐNTBM. Ngoài ra, phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống của ĐNTBM cũng được đánh giá rất tốt.
Tuy nhiên, ĐNTBM vẫn còn những hạn chế nhất định về năng lực như:
- Năng lực về ngoại ngữ chưa đồng đều, nhiều TBM chưa sử dụng thành thạo ngoại ngữ cho công tác của mình. Năng lực công bố quốc tế còn hạn chế; các hoạt động NCKH chưa được tổ chức ở mức sâu vì khả năng vận dụng NCKH vào đào tạo, thực tiễn vẫn còn được đánh giá ở mức thấp. Việc bồi dưỡng phát triển ĐNGV trong bộ môn chưa được sâu sát. Công tác thi đua - khen thưởng cũng không được quan tâm nhiều mà chỉ thực hiện theo hình thức. Một trong số những năng lực lãnh đạo quan trọng là khả năng quyết đoán, đổi mới lại được đánh giá không cao.
- Đặc biệt năng lực hoạt động xã hội và năng lực hợp tác quốc tế hiện nay đang là yêu cầu cấp thiết thì đều chưa được ĐNTBM đáp ứng một cách đầy đủ và đảm bảo yêu cầu của hội nhập quốc tế về tri thức. Điều này cho thấy ĐNTBM cần thiết phải được phát triển một cách phù hợp hơn.
2.5. Thực trạng phát triển đội ngũ trưởng bộ môn trong trường đại học định hướng nghiên cứu ở Đại học Quốc gia Hà Nội
Để đánh giá công tác phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC ở ĐHQGHN, NCS đã phát phiếu phỏng vấn và khảo sát đến CBQL, giảng viên cũng như các TBM trong 06 trường ĐHĐHNC của ĐHQGHN, kết quả như sau:
2.5.1. Xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí vị trí trưởng bộ môn
Với các trường ĐHĐHNC, việc xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí cho các vị trí quản lý trong đó có vị trí TBM đều đã được quan tâm thực hiện. Trong số những người tham gia phỏng vấn, chỉ có 6% cho rằng trường của họ chưa xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí cho vị trí này, đây là con số khá nhỏ. Nhưng khi đánh giá về kết quả thực hiện thì chỉ có 26,12% số người được hỏi cho rằng việc xây dựng tiêu chuẩn cho vị trí TBM đã thực hiện rất hiệu quả; 39,06% là khá hiệu quả; có tới 17,86% cho rằng ít hiệu quả và 6,03% là chưa hiệu quả. Điều đó cho thấy công tác này chưa được thực hiện một cách triệt để.
Không hiệu quả
6.03%
Ít hiệu quả
17.86%
Rất hiệu quả
26.12%
Trung lập
10.94%
Khá hiệu quả
39.06%
Nguồn: Khảo sát thống kê của NCS năm 2018
Biểu đồ 2.5: Đánh giá mức độ hiệu quả của công tác xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí vị trí trưởng bộ môn
Phỏng vấn sâu những người quản lý, phần lớn các ý kiến cho rằng các tiêu chuẩn xây dựng cho vị trí TBM chỉ dừng lại ở năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, rất ít quan tâm tới năng lực quản lý, lãnh đạo và đặc biệt là năng lực quan hệ xã hội và hợp tác quốc tế thì hầu hết các trường chưa đề cập tới. Bảng mô tả công việc, nhiệm vụ cũng khá sơ sài. Điều này không những gây khó khăn cho việc đánh giá các TBM mà còn
không thể hiện được sự khác biệt giữa TBM với giảng viên trong một khoa. Đây chính là một hạn chế khiến cho công tác phát triển ĐNTBM trong trường ĐHĐHNC của ĐHQGHN giảm hiệu quả.
Bảng 2.27: Đánh giá mức độ hiệu quả của công tác xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí vị trí trưởng bộ môn theo đối tượng khảo sát
Hiệu quả | Khá hiệu quả | Không có ý kiến | Ít hiệu quả | Không hiệu quả | ĐTB | Tổng | ||||||
SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | SL | % | |||
Tổng | 117 | 26,12 % | 175 | 39,06 % | 49 | 10,4 % | 80 | 17,86 % | 27 | 6,03 % | 3,61 | 448 |
Cán bộ quản lý cấp trường | 23 | 29,9 % | 34 | 44,2 % | 4 | 5,2 % | 12 | 15,6 % | 4 | 5,2 % | 3,78 | 77 |
Trưởng bộ môn | 37 | 28,0 % | 52 | 39,4 % | 16 | 12,1 % | 22 | 16,7 % | 5 | 3,8 % | 3,71 | 132 |
Giảng viên | 57 | 23,8 % | 89 | 37,2 % | 29 | 12,1 % | 46 | 19,2 % | 18 | 7,5 % | 3,51 | 239 |
Nguồn: Khảo sát của NCS năm 2018
Đánh giá về mức độ hiệu quả của công tác xây dựng tiêu chuẩn, tiêu chí vị trí TBM có sự khác nhau giữa các đối tượng khảo sát. Nếu như CBQL cấp trường cho rằng các yêu cầu về tiêu chuẩn, tiêu chí xây dựng cho ĐNTBM là khá hiệu quả, đầy đủ và phản ánh được yêu cầu của nhà trường đối với TBM thì giảng viên lại đánh giá thấp hơn. Mức trung bình đánh giá của giảng viên chỉ là 3,51 bởi họ cho rằng cần phải có thêm những tiêu chuẩn hoặc đặt ra tiêu chuẩn cao hơn cho TBM để thể hiện uy tín, đặc biệt là các tiêu chuẩn liên quan đến NCKH và tổ chức NCKH.
2.5.2. Thực trạng hoạt động phát triển đội ngũ trưởng bộ môn
2.5.2.1. Lập quy hoạch phát triển đội ngũ trưởng bộ môn
Công tác quy hoạch đội ngũ là một trong những hoạt động quan trọng của nhà quản lý. Nó có tác dụng làm cho cơ quan, đơn vị hoặc người quản lý biết được về số lượng, chất lượng, cơ cấu tuổi, trình độ và cơ cấu chuyên môn... của từng CBQL và cả đội ngũ CBQL giáo dục; đồng thời xây dựng được kế hoạch phát triển đội ngũ, nhằm tìm ra các biện pháp nâng cao chất lượng cho từng CBQL và cả đội ngũ để họ có được khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ trong từng thời kỳ.
Ý thức được tầm quan trọng của công tác quy hoạch cán bộ đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ, trong những năm qua các trường ĐHĐHNC đã quan tâm và triển khai việc quy hoạch phát triển ĐNTBM. Đối với các trường ĐHĐHNC thuộc ĐHQGHN, việc quy hoạch phát triển ĐNTBM là công tác được quan tâm để đảm bảo cấp quản lý đơn vị của các trường. Cứ 05 năm một lần, các trường lại đưa ra chiến lược phát triển của mình dựa trên cơ sở báo cáo chi tiết tình hình GD&ĐT hàng năm, trong đó chiến lược phát triển ĐNTBM luôn có mặt. Hàng năm vào quý IV, các khoa phải thực hiện công tác quy hoạch CBQL, trong đó có vị trí quản lý bộ môn (TBM, phó TBM); quản lý khoa (trưởng khoa, phó trưởng khoa) thông qua cuộc họp công khai, lấy ý kiến của toàn khoa. Theo nguyên tắc quy hoạch mỗi vị trí cần giới thiệu từ 1-3 người có năng lực, trình độ chuyên môn cao (đối chiếu theo tiêu chuẩn từng vị trí). Sau khi thống nhất, lập biên bản họp và gửi kèm bản quy hoạch lên Phòng Tổ chức Cán bộ. Tập thể lãnh đạo nhà trường sẽ tổng hợp và quyết định phê duyệt quy hoạch chung. Các bản quy hoạch này là sự chuẩn bị nhân sự để nhà trường không rơi vào thế “bị động” khi có một vị trí quản lý đơn vị trống trong năm và có thể thực hiện bổ nhiệm luôn. Ngoài ra, sau mỗi năm, căn cứ vào báo cáo tổng kết hoạt động của nhà trường và dự báo khả năng thay đổi nhân sự TBM năm tới, nhà trường sẽ hoạch định nhu cầu về số lượng TBM, xác định mức độ thừa thiếu để điều chỉnh, bổ sung.
Ít hiệu quả,
16.52%
Không hiệu
quả, 2.68%
Rất hiệu quả,
33.48%
Trung lập,
7.14%
Khá hiệu quả,
40.18%
Nguồn: Khảo sát thống kê của NCS năm 2018
Biểu đồ 2.6: Đánh giá mức độ hiệu quả của quy hoạch trưởng bộ môn
Các kế hoạch tuyển dụng, thuyên chuyển, ĐT-BD... được các khoa đưa lên dựa trên việc phân tích nhu cầu phát sinh thực tế của đơn vị. Nhà trường sẽ tổng hợp lại và