định giá phần nhiều chưa qua đào tạo nghiệp vụ chuyên môn, nên kết quả thẩm định giá còn hạn chế và độ tin cậy không cao, không những thế, còn phát sinh nhiều chi phí hội họp và các chi phí khác gây lãng phí. Ngoài ra, do nhiều tiêu chuẩn thẩm định giá và phương pháp thẩm định giá chưa được ban hành, nên dẫn đến nhiều vấn đề tồn tại phải tiếp tục nghiên cứu và xử lý.
Bốn là, Cơ sở dữ liệu và nguồn thông tin phục vụ cho công tác thẩm định giá tài sản còn hạn chế, gặp nhiều khó khăn.
Cơ sở dữ liệu và nguồn thông tin có vai trò rất quan trọng quá trình thẩm định giá. Ở nước ta hiện nay, hầu như chưa có tổ chức thẩm định giá nào xây dựng được nguồn cơ sở dữ liệu và nguồn thông tin cập nhật đủ khả năng đáp ứng cho nhu cầu thẩm định giá một cách có hiệu quả và đáng tin cậy, như ở các nước có nghề thẩm định giá đã phát triển. Việc thiếu cơ sở dữ liệu và nguồn thông tin đã ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng các nguyên tắc và phương pháp trong quá trình thẩm định giá, do vậy đã ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động thẩm định giá.
Thông tin là nguồn lực đặc biệt quan trọng trong hoạt động dịch vụ thẩm định giá. Ở nước ta hiện nay, chưa có những trung tâm cập nhật và lưu trữ nguồn số liệu, dữ liệu, thông tin tin cậy như các nước có nghề định giá phát triển, do vậy rất thiếu thông tin phục vụ định giá. Việc thiếu thông tin ảnh hưởng đến việc lựa chọn áp dụng phương pháp thẩm định giá và kéo dài thời gian thẩm định giá.
Bên cạnh đó chất lượng thông tin cũng là một vấn đề: chất lượng thông tin thu thập được không đảm bảo độ tin cậy làm ảnh hưởng đến độ chính xác của kết quả thẩm đinh giá.
Chất lượng thông tin trên thị trường không thật đảm bảo là do ở nước ta nền kinh tế thị trường mới hình thành, là thị trường chưa hoàn hảo và chưa thực sự công khai. Thị trường ngầm đã và đang tồn tại trong một thời gian dài, chưa khắc phục được một sớm, một chiều.
Trong khi ngành thẩm định giá của các nước trên thế giới đã đi một bước khá xa về khoa học thẩm định giá thì ở Việt nam vẫn vẫn còn trong thời kỳ vừa nghiên cứu vừa ứng dụng trước những nhu cầu thay đổi của xã hội. Trong khi
các nước đã xây được những ngân hàng dữ liệu khổng lồ phục vụ cho công tác thẩm định giá, sử dụng những phần mềm hiện đại được xây dựng dựa trên các phương pháp thẩm định giá để vận dụng một cách hiệu quả thì hoạt động dịch vụ thẩm định giá nước ta vẫn còn dựa trên những tính toán thủ công, có thể nói còn tốn hao nhiều công sức, thời gian trong khi hiệu quả thì không cao.
Từ việc thiếu nguồn thông tin thị trường thì bên cạnh đó với các tổ chức thẩm định giá mới thành lập chưa lưu giữ được một ngân hàng dữ liệu phục vụ công tác thẩm định giá, nhất là nguồn dữ liệu qúa khứ phần nào làm giảm khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.
2.3.3. Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động thẩm định giá ở nước ta
Có thể bạn quan tâm!
- Giá Trị Tài Sản Đã Thẩm Định Từ Năm 2003 – 2006 Của Trung
- Gía Trị Tài Sản Đã Thẩm Định Qua Các Năm Của Sivc
- Đánh Giá Chung Về Dịch Vụ Thẩm Định Giá Ở Việt Nam Hiện Nay
- Chuyển Đổi Các Trung Tâm Cung Cấp Dịch Vụ Thẩm Định Giá Sang Mô Hình Doanh Nghiệp
- Mở Rộng Hợp Tác Quốc Tế Về Thẩm Định Giá
- Phát triển dịch vụ thẩm định giá ở Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 122 trang tài liệu này.
Những tồn tại của hoạt động thẩm định giá ở nước ta được nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể nêu một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, khung pháp lý đang trong quá trình xây dựng, chưa hoàn thiện.
Thứ hai, nền kinh tế nước ta chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nên tư duy cách làm ăn và những kiến thức, kinh nghiệm về thẩm định giá theo mô hình kinh tế thị trường còn nhiều hạn chế. Nhận thức của phần đông cán bộ và dân chúng còn chưa tiến kịp, có phần tư duy còn hạn chế và đơn giản.
Thứ ba, các yếu tố của nền kinh tế thị trường thiếu đồng bộ, chưa đầy đủ còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện.
Thứ tư, công tác đào tạo cán bộ cho lĩnh vực này theo mô hình kinh tế thị trường chưa được đầu tư đúng mức, hầu như bỏ ngỏ. Điều này đã làm thiếu một lực lượng quan trong đội ngũ cán bộ thẩm định giá tài sản ở nước ta.
Như vậy, ở Việt Nam dịch vụ thẩm định giá mới thực sự được hình thành và đi vào hoạt động trong khoảng 10 năm trở lại đây. Hoạt động thẩm định giá trong thời gian qua đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường quản lý tài chính doanh nghiệp; hạn chế thất thoát trong mua sắm… Đặc biệt là góp phần tích cực trong việc tiết kiệm chi ngân sách nhà nước; đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Tuy nhiên, những thành tựu mới chỉ là bước đầu. Còn nhiều bất cập, ảnh hưởng chưa tốt đến sự phát triển của loại hình dịch vụ này. Do vậy cần thiết phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp nhằm phát triển hơn nữa dịch vụ thẩm định giá Việt Nam.
CHƯƠNG 3:
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THẨM ĐỊNH Ở GIÁ VIỆT NAM
3.1 Bối cảnh mới và tác động của nó đến dịch vụ thẩm định giá Việt Nam
Hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu kinh tế -xã hội quan trọng. Kinh tế thị trường đã có những bước phát triển cơ bản và đạt được trình độ nhất định. Trên thế giới, các nước như Trung Quốc, Nga, các nước ASEAN… đã công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường. Đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy dịch vụ thẩm định giá phát triển.
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng phát triển chung thời đại ngày nay. Đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế thị trường ở Việt Nam phát triển. Tuy nhiên, việc thực hiện các cam kết quốc tế đòi hỏi nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt nam phải cạnh tranh quyết liệt. Đây chính là những khó khăn lớn cho doanh nghiệp thẩm định giá Việt Nam trong thời gian tới do còn khá non trẻ, kinh nghiệm và trình độ chênh lệch khá xa so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Theo Giáo sư David Dapice thì kết quả xếp hạng kinh doanh của 14 nước Châu Á (Nam, Đông nam và Đông Á) cho thấy Việt nam xếp thứ 12 đồng hạng nhưng sau Indônesia).
Chủ đề tại hội nghị Hội thẩm định giá ASEAN tháng 7 năm 2006 tại Singapore được đặt là “thẩm định giá ở châu Á”, nhằm mục tiêu: thảo luận và chia sẻ các kinh nghiệm, gợi ra các giải pháp tiếp tục phát triển nghề thẩm định giá của các nước thành viên, góp phần làm cho thị trường giao dịch mua bán tài sản công khai hơn, minh bạch hơn, thúc đẩy nền kinh tế của mỗi nước phát triển trước những thách thức to lớn của qúa trình toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế với mức độ ngày càng sâu hơn và phạm vi ngày càng rộng hơn; và chính bối cảnh này đã đặt ra những thách thức cho nghề thẩm định giá phải giải quyết.
Rõ nét nhất là nhu cầu thẩm định gía ngày càng cao, mang tính xuyên quốc gia trong việc yêu cầu các tổ chức thẩm định giá phải xác định đúng giá trị tài sản theo nguyên tắc thị trường để phục vụ các mục đích ngày càng đa dạng là mua, bán tài sản, tính thuế, đầu tư, thuê mướn, thế chấp, bảo lãnh, bảo hiểm...Từ đó đòi hỏi các nước phải nghiên cứu để có những tương đồng về chuẩn mực pháp lý, về phương pháp, tiêu chuẩn thẩm định giá, về hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ thẩm định giá và năng lực đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp. Nhiều nước đã có những kinh nghiệm rất hay, có tính chon lọc trong qúa trình đối mặt với những thách thức mới của hoạt động thẩm định giá. Đó cũng là những nội dung mà Việt Nam cần phải nghiên cứu, học hỏi và vận dụng cho nghề dịch vụ thẩm định giá của mình.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính Việt Nam đã là hội viên thông tấn của Hiệp hội thẩm định giá Quốc tế (IVSC). Với sự hỗ trợ của Bộ Tài chính Việt Nam, Hội Thẩm định giá Việt Nam vừa được thành lập đang nộp đơn đăng ký là hội viên chính thức của IVSC. Phía IVSC đã có thông báo cho Hội Thẩm định giá Việt Nam hoàn tất thủ tục xin gia nhập hội viên để có thể kết nạp tại hội nghị thường niên về thẩm định giá năm 2008... Rõ ràng thẩm định giá Việt Nam đang từng bước hội nhập vào nền thẩm định giá của khu vực và thế giới.
Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của nền kinh tế tri thức. Do tính chất đặc biệt của dịch vụ thẩm định giá là một loại hình dịch vụ tư vấn, đòi hỏi kết quả thẩm định giá cung cấp cho khách hàng phải có độ chính xác, tin cậy cao nên các yếu tố như văn hoá công ty, trình độ chuyên môn và đạo đức kinh doanh của thẩm định viên, công nghệ ứng dụng trong thẩm định giá... luôn được coi trọng và là bí quyết để giữ khách hàng; mở rộng thị trường. Đặc trưng nổi bật của nghề thẩm định giá là sự đòi hỏi cao về yếu tố con người, đó là năng lực và phẩm chất đối với người thẩm định viên, là yêu cầu cao về chữ tín trong kinh doanh sẽ quyết định vai trò của việc cung ứng nguồn nhân lực mới này trong nền kinh tế nước ta.
Nhìn chung, bối cảnh mới của đất nước và thế giới trong những năm trước mắt, mặc dù có không ít thách thức, sẽ là động lực phát triển nhanh, mạnh hoạt động thẩm định giá trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
3.2. Những quan điểm chủ yếu trong việc phát triển dịch vụ thẩm định giá Việt Nam
3.2.1. Phát triển dịch vụ thẩm định giá phải trên cơ sở các nguyên tắc của cơ chế thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế
Việt nam là thành viên của Hiệp hội thẩm định giá ASEAN và tham gia vào Uỷ ban tiêu chuẩn thẩm định giá Quốc tế với tư cách là hội viên thông tấn. Như vậy hoạt động thẩm định giá của nước ta phải theo thông lệ thẩm định giá quốc tế. Nguyên tắc cao nhất mà các nước tham gia tổ chức thẩm định giá khu vực và quốc tế là không được trái với hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế. Là một thành viên của Hiệp hội, Việt Nam cũng phải thừa nhận những nguyên tắc và khái niệm cũng như những tiêu chuẩn của Uỷ ban tiêu chuẩn thẩm định giá Quốc tế đã ban hành như là một khuôn khổ hướng dẫn để xây dựng hệ thống, tiêu chuẩn thẩm định giá của mình. Những tiêu chuẩn ấy phải phù hợp với điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, nghề thẩm định giá nói riêng và phải phù hợp với hệ thống luật pháp, trình độ, kinh nghiệm, thực tiễn công tác thẩm định giá ở nước ta.
Nhu cầu về thẩm định giá của xã hội ngày càng cao, càng mang tính xuyên quốc gia, điều này yêu cầu các tổ chức thẩm định giá phải xác định đúng giá trị tài sản theo nguyên tắc thị trường để phục vụ các mục đích ngày càng đa dạng cả về chiều sâu và chiều rộng là: mua bán tài sản, đầu tư, tính thuế, cho thuê, bảo lãnh, bảo hiểm, ... từ đó đòi hỏi Việt Nam cũng như các nước phải nghiên cứu để có những tương đồng về chuẩn mực pháp lý, về phương pháp, tiêu chuẩn thẩm định giá, về hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin phục vụ thẩm định giá và năng lực của đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp
3.2.2. Xây dựng nghề thẩm định giá mang tính chuyên nghiệp cao
Thẩm định giá đang dần trở thành một nghề chuyên nghiệp, độc lập ở nước ta. Tính chuyên nghiệp trong thẩm định giá thể hiện trước hết là ở các thẩm định viên. Họ là người có đủ kỹ năng thực hành, có kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn thực hành trong một lĩnh vực chuyên môn nhất định. Để thực hiện
những nhiệm vụ chuyên sâu đó đòi hỏi người thẩm định viên phải có những kiến thức và kinh nghiệm từ những khoá đào tạo khắt khe, bao gồm cả thời gian thực hành bắt buộc kèm theo. Các thẩm định viên phải thuộc một tổ chức nghề nghiệp, một đơn vị có chức năng thẩm định gía nhất định và tuân thủ những quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Người thẩm định viên cũng thường xuyên phải cập nhật, nâng cao kiến thức chuyên môn nhằm đáp ứng được những nhu cầu đa dạng và liên tục thay đổi của khách hàng thẩm định giá.
Thẩm định giá là lĩnh vực mới đối với Việt nam. Vì vậy cần tuyên truyền cao nhận thức của xã hội, công chúng đối với vai trò, vị trí, và đóng góp của nghề định giá trong phát triển kinh tế. Đặc biệt cần nâng cao nhận thức về sự cần thiết đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ thẩm định viên về giá chuyên nghiệp, nhất là báo cáo thẩm định giá, chất lượng dịch vụ này đòi hỏi phải được tiêu chuẩn hóa và do những cá nhân được đào tạo cơ bản, hệ thống, có kiến thức và kỹ năng tiến hành.
Có thể thấy trong tương lai, Việt nam sẽ xuất hiện nhu cầu đào tạo kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp, giống như nhu cầu đµo tạo đối với các nghề chuyên môn khác như bác sỹ, luật sư, kế tóan, kỹ sư. Điều này là toàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế vì trên thế giới hoạt động thẩm định giá là một nghề riêng, chuyên nghiệp và đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Tính riêng biệt của nghề này thể hiện ở 6 nội dung chuyên môn mà một thẩm định viên về giá tài sản bắt buộc phải qua đào tạo là: kinh tế học về tài sản; thị trường vốn; các phương pháp thẩm định giá; phân tích và viết báo cáo thẩm định giá; những kỹ thuật và phương pháp luận thẩm định giá; toán tài chính trong thẩm định giá.
Bộ Tài chính cần nghiên cứu đến việc đào tạo đội ngũ trợ lý cho thẩm định viên về giá. Những trợ lý này là người được đào tạo các môn cơ bản về thẩm định giá, nhưng không nhất thiết (bắt buộc) phải qua (hoặc đỗ) các kỳ thi lấy thẻ thẩm định viên. Nhiệm vụ thẩm định giá được phân công cần có sự trùng hợp giữa đối tượng thẩm định (loại tài sản) với thẩm định viên chuyên về lĩnh
vực đó, điều này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo thẩm định. Vì vậy đối với nội dung, chương trình bồi dưỡng cần tập trung cho các chuyên ngành này.
Cần xây dựng hệ thống tài liệu giáo trình giảng dạy, bồi dưỡng. Cần có chính sách khuyến khích những thẩm định viên có nhiều kinh nghiệm, những cán bộ quản lý, giảng viên các trường viết giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy nghề thẩm định giá. Ngoài ra, những giáo trình thẩm định giá của các giảng viên, giáo sư nước ngoài cần được dịch ra tiếng Việt làm tài liệu tham khảo.
3.2.3. Phát triển dịch vụ thẩm định giá phải dựa vào sức mạnh của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Đa dạng hoá hình thức sở hữu doanh nghiệp thẩm định giá nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm định giá ngày càng đa dạng và phức tạp của xã hội trong nền kinh tế thị trường và hoạt động thẩm định giá phải thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế .
Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần với nhiều hình thức tổ chức kinh tế là chủ trương phát triển kinh tế được Đảng và Nhà nước ta khẳng định. Theo định hướng trên, cần thống nhất quan điểm trong lĩnh vực hoạt động thẩm định giá, cần có sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực dịch vụ này đều có quyền bình đẳng và nghĩa vụ như nhau.
3.3. Một số giải pháp phát triển dịch vụ thẩm định giá ở Việt Nam
3.3.1. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về thẩm định giá
Việc xây dựng một hệ thống quản lý nhà nước về thẩm định giá thống nhất từ Trung ương đến địa phương là rất cần thiết. Hệ thống quản lý phải chặt chẽ và khoa học, vừa đảm bảo được vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, vừa phát huy tính năng động, sáng tạo có hiệu quả của các chủ thể tham gia lĩnh vực thẩm định giá. Hệ thống quản lý nhà nước về thẩm định giá có thể bao gồm 2 thành phần: Quản lý trực tiếp nhà nước của Bộ Tài chính và quản lý thông qua Hội thẩm định giá Việt Nam (hiện tại vai trò của Hội còn mờ nhạt). Trong đó,
Nhà nước (Bộ Tài chính) kiểm soát toàn bộ các hoạt động thẩm định giá; Hội nghề nghiệp tập hợp, bồi dưỡng nâng cao tay nghề và đạo đức nghề nghiệp cho hội viên, khuyến khích hội viên tuân thủ luật lệ, quy định hoạt động thẩm định giá, nhằm phát triển hoạt động thẩm định giá đúng hướng và ổn định, đồng thời giúp Nhà nước nắm bắt được tình hình thực tế để có chính sách quản lý sát thực.
Bộ Tài chính có chức năng quản lý nhà nước về giá, trong đó có quản lý nhà nước về thẩm định giá. Điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước ta, đồng thời phù hợp với xu thế chung của các nước trên thế giới, cũng như trong khu vực.
Hiện nay có rất nhiều tổ chức thẩm định giá hoạt động, tuy nhiên chưa có công tác kiểm tra tư cách pháp nhân cũng như chất lượng của các tổ chức thẩm định giá. Vẫn còn có hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, thiếu công bằng giữa các tổ chức thẩm định giá có đầy đủ điều kiện hành nghề theo quy đinh của pháp luật và các tổ chức chưa đủ điều kiện vẫn được hành nghề. Vì vậy cần phải có biện pháp quản lý và đưa hoạt động của các tổ chức này đi vào khuôn khổ theo quy định của pháp luật, đó là:
Việc quy định rõ trách nhiệm của các tổ chức thẩm định giá đối với kết quả thẩm định giá, gía trị thẩm định không đúng hoặc làm thiệt hại cho ngân sách nhà nước, cho khách hàng thì tổ chức thẩm định giá và thẩm định viên về giá phải chịu trách nhiệm, phải bồi thường...
Phải khẩn trương ban hành các tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam, đặc biệt là các tiêu chuẩn về phương pháp thẩm định giá, về mục đích thẩm định giá, về hợp đồng thẩm định giá...
Cần thiết nâng cao năng lực quản lý nhà nước về thẩm định giá trong lĩnh vực tổ chức thi và giấy phép hành nghề thẩm định giá và vai trò của Chính phủ đối với hoạt động thẩm định giá để hoạt động thẩm định giá ngày càng có tình chuyên nghiệp cao.
Theo quy định của Pháp lệnh Giá và Nghị định số 101/ 2005/NĐ-CP của Chính phủ về Thẩm định giá về Tiêu chuẩn thẩm định viên về giá đã quy định về: Điều kiện hành nghề của thẩm định viên về giá; Người không được đăng ký hành nghề thẩm định giá; Quyền và nghĩa vụ của thẩm định viên về giá; Những