Nhìn chung, so với các nước trên thế giới, KHCC của các ngân hàng tại Việt Nam có giá trị tài sản thấp hơn nhiều và các tiêu chí xác định tương đối đa dạng (dựa trên giá trị tiền gửi, chi tiêu thẻ tín dụng, giá trị đầu tư, bảo hiểm hoặc giá trị khoản vay…) và tùy thuộc vào mục tiêu, quy mô cũng như năng lực tài chính của mỗi ngân hàng (trung bình giá trị tiền gửi tại ngân hàng từ 01 tỷ đồng trở lên).
Theo quan điểm của tác giả, việc xác định KHCC dựa vào giá trị tiền gửi, giá trị các khoản đầu tư, bảo hiểm tại ngân hàng thể hiện tiềm lực tài chính của khách hàng, có thể xác định được ngay và hầu như không có yếu tố rủi ro. Trường hợp xác định KHCC qua tiêu chí giá trị chi tiêu thẻ tín dụng hoặc giá trị dư nợ cho vay của khách hàng chưa thực sự hợp lý bởi đây là những khoản về thực chất là ngân hàng ứng trước và khách hàng trả sau cho ngân hàng, mặc dù dựa trên yếu tố về thu nhập hoặc chủ yếu là tài sản thế chấp tại ngân hàng, tuy nhiên các tài sản này hầu hết không phải tài sản tài chính và tính thanh khoản không cao, do vậy tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro. Mặt khác, xác định KHCC dựa vào tiêu chí dư nợ vay cũng dễ bị nhầm lẫn với các khách hàng thông thường (nhiều trường hợp vay mua nhà thu nhập thấp cũng có thể có giá trị tiền vay cao trên 01 tỷ đồng…).
Ngoài ra, Nguyễn Trí Thức (2016) cho rằng KHCC là những cá nhân trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần đem lại nguồn tài sản/vốn cho NHTM. Trong đó, “khách hàng trực tiếp là khách hàng có tiền gửi cao, số dư nợ tiền vay cao, ổn định và đảm bảo chữ tín với ngân hàng, đồng thời sử dụng nhiều DVNH; khách hàng gián tiếp mang lại nguồn lực cho ngân hàng từ uy tín, địa vị chính trị trong xã hội mà không phải từ việc sử dụng SPDV của ngân hàng”. Về thực tế, việc các ngân hàng phân nhóm khách hàng chính là do lợi ích mà các khách hàng đó đem lại, và các KHCC đều là những khách hàng mang lại nguồn tài sản và lợi nhuận cao hơn hẳn và rất ổn định so với các khách hàng thông thường khác. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, không nên xác định KHCC là khách hàng gián tiếp mang lợi nhuận cho ngân hàng từ uy tín và địa vị chính trị (ví dụ như lãnh đạo của các cơ quan, tổ chức có ảnh hưởng về mặt chính trị - xã hội) do tiêu chí này nặng về định tính và khó có thể xác định được chính xác mức độ ảnh hưởng của các cá nhân này cũng như lợi nhuận mà ngân hàng có được.
Do vậy, KHCC là những cá nhân có giá trị tài sản (số dư tiền gửi, giá trị đầu tư, bảo hiểm) hoặc mức thu nhập cá nhân đáp ứng yêu cầu của từng ngân hàng, trực tiếp sử dụng DVNH dành cho KHCC của ngân hàng và mang lại nguồn tài sản lớn và ổn định cho ngân hàng.
1.2.1.2. Đặc điểm của khách hàng cao cấp
KHCC là những đối tượng khách hàng rất “đặc biệt” của NHTM.
Đa số KHCC là các doanh nhân – những người có nguồn thu ổn định từ chính doanh nghiệp của họ. Ngoài giá trị tài sản lớn, họ còn là những người ưa thích mạo hiểm, có khẩu vị rủi ro cao và luôn muốn tối đa hóa giá trị tài sản hiện có. Ngoài ra, còn một bộ phận khách hàng là những ngôi sao giải trí, những người hưu trí và thậm chí nhiều người dựa vào nguồn tiền thừa kế của thế hệ trước. Những người này thường có thu nhập rất cao tại một thời điểm nhất định và có tâm lý muốn bảo toàn tài sản để gìn giữ cho thế hệ sau (Hans Geiger và Harry Hurzeler, 2003).
Các KHCC có nền tảng giáo dục khá tốt, có khả năng trực tiếp nghiên cứu thông tin thị trường và ra quyết định chính xác. Họ luôn quan tâm đến các hình thức đầu tư khác nhau và có thể là khách hàng của nhiều hơn 01 NHTM. Tuy nhiên, các KHCC thường ủy thác qua ngân hàng để thực hiện các quyết định của mình và tìm kiếm những dịch vụ tư vấn tốt từ phía ngân hàng để tăng thêm giá trị tài sản. Bên cạnh đó, những khách hàng này có phong cách sống khá khác biệt, họ thường sử dụng các dịch vụ cao cấp cho cá nhân và gia đình và luôn đòi hỏi dịch vụ phải được phục vụ nhanh chóng, tận nơi và đặc biệt đảm bảo thông tin được bảo mật tối đa. Tuy nhiên, khi hài lòng với ngân hàng cung cấp, KHCC có thể gắn bó rất lâu dài và tạo ra nguồn lợi nhuận rất đáng kể cho ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng cao cấp tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 1
- Phát triển dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng cao cấp tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 2
- Khái Quát Về Dịch Vụ Ngân Hàng Của Ngân Hàng Thương Mại
- Phát Triển Dịch Vụ Ngân Hàng Dành Cho Khách Hàng Cao Cấp Của Ngân Hàng Thương Mại
- Chỉ Tiêu Đánh Giá Sự Phát Triển Về Chất Của Dịch Vụ Ngân Hàng Dành Cho Khách Hàng Cao Cấp
- Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Phát Triển Dịch Vụ Ngân Hàng Dành Cho Khách Hàng Cao Cấp Của Ngân Hàng Thương Mại
Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.
Nhìn chung, KHCC luôn là những vị khách tương đối “phức tạp” của mỗi ngân hàng nhưng lại là đối tượng mà bất cứ ngân hàng nào cũng cần thu hút, một mặt để tạo ra giá trị lớn hơn cho ngân hàng, mặt khác chính là động lực để đa dạng hóa cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ dành cho các khách hàng này.
1.2.1.3. Nhu cầu về dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng cao cấp
Nhu cầu của các KHCC thường rất đa dạng và phức tạp, từ các nhu cầu đơn giản như gửi tiền, thanh toán, vay vốn phát triển kinh doanh hoặc tích lũy… đến nhu cầu đầu tư, quản lý tài sản hay nhu cầu tiêu dùng gắn với đời sống cá nhân (hàng hóa xa xỉ, nghỉ dưỡng cao cấp, giải trí…). Theo nghiên cứu của Hans Geiger và Harry Hurzeler (2003), những năm 1980, khách hàng có độ tuổi trung bình trên 60 thường quan tâm đến bảo tồn tài sản thông qua đầu tư vào thị trường tiền tệ hoặc trái phiếu có rủi ro thấp. Đến những năm 1990, xuất hiện thuật ngữ “tài sản mới” của những người trẻ tuổi, họ gia tăng tài sản trong một thời gian ngắn với kỳ vọng lớn và chấp nhận rủi ro cao. Và do vậy, nhu cầu đầu tư tăng lên đối với các công cụ vốn hoặc tài trợ mạo hiểm. Sau đó, do tác động của công nghệ và toàn cầu hóa, nhu cầu về sản phẩm cấu
trúc hay quỹ tương hỗ hoặc tư vấn thuế quốc tế, lập kế hoạch đối với bất động sản cũng gia tăng nhanh chóng.
Tùy theo đặc điểm địa lý và điều kiện kinh tế, nhu cầu của các KHCC cũng khác nhau.
Ở các nước phát triển như Pháp, Thụy sỹ, các KHCC thường có nhu cầu lớn đối với các công cụ tài chính hơn là các dịch vụ khác. Ví dụ như, KHCC của BNP Paribas thường tập trung vào dịch vụ tài chính (16%), bán lẻ (15%), công nghệ (14%), bất động sản (12%), xây dựng (12%) và phần mềm (10%).
Ngược lại, ở Trung Quốc, hầu hết những người giàu ở Trung Quốc là các doanh nhân và có tuổi đời khoảng 40-60 tuổi. Khi công việc kinh doanh của họ ổn định và thành công hơn, họ bắt đầu quan tâm đến bảo toàn tài sản hơn là tạo ra tài sản – mục tiêu quản lý tài sản trước kia của họ. Theo xu thế lên xuống của thị trường, người giàu ở Trung Quốc có thái độ thận trọng hơn đối với việc đầu tư. Họ ưa thích các sản phẩm đầu tư có rủi ro thấp, hơn là các sản phẩm có rủi ro cao và lợi nhuận cao. Do vậy, họ chủ yếu tập trung tài sản trong nước vào tiết kiệm, cổ phiếu và bất động sản, và giảm khoảng 50% thị phần dành cho các khoản đầu tư.
Theo một khảo sát của Hoàng Hồ Quang (2014), trong điều kiện thị trường và thu nhập tốt, các KHCC tại các NHTM ở Việt Nam có nhu cầu cao nhất đối với đầu tư bất động sản và chứng khoán (55%), du lịch (41%), mua ô tô (29%), mua sắm đồ đắt tiền (22%), trong khi nhu cầu vay vốn ngân hàng khá thấp (15%).
Như vậy, KHCC có nhu cầu hết sức riêng biệt nhưng rất phong phú và đa dạng. Với giá trị tài sản ngày càng cao của các khách hàng này, NHTM càng phải đưa ra nhiều dịch vụ tương ứng với mỗi nhu cầu đặc biệt của KHCC.
1.2.2. Dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng cao cấp của ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Khái niệm dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng cao cấp
Với khái niệm KHCC đã được xác định ở trên, DVNH dành cho KHCC chính là một hoặc một tập hợp các DVNH dành riêng cho đối tượng khách hàng này. Đây là loại hình dịch vụ mang tính cá nhân và định hướng khách hàng với mối quan hệ tốt giữa ngân hàng và khách hàng. Mục tiêu của DVNH dành cho KHCC là lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch đáp ứng nhu cầu cá nhân của khách hàng và định hướng tài chính trong dài hạn. Đối với DVNH dành cho KHCC, việc đa dạng hóa rất quan trọng để đảm
bảo tính an toàn và bảo toàn giá trị của các khoản đầu tư của khách hàng mà vốn dĩ là nhiệm vụ vô cùng khó khăn và phức tạp (Manger, dẫn từ Stefan, 2012).
Theo Lyn Biker (1996), hầu hết những người trong lĩnh vực ngân hàng đều hiểu rằng DVNH dành cho KHCC là hình thái cao nhất của DVNH bán lẻ. Tuy nhiên, DVNH dành cho KHCC có những đặc điểm rất khác biệt so với DVNH bán lẻ thông thường.
Trước hết, DVNH dành cho KHCC đa dạng hơn các DVNH bán lẻ truyền thống và chỉ tập trung duy nhất vào khách hàng cá nhân (DVNH bán lẻ ngoài đối tượng khách hàng cá nhân còn có hộ gia đình, doanh nghiệp vừa và nhỏ) với những tiêu chí nhất định về giá trị tài sản hoặc mức thu nhập.
Thứ hai, DVNH dành cho KHCC đặt sự riêng tư của khách hàng lên hàng đầu. Không gian phục vụ KHCC phải tách biệt, sang trọng, tạo sự thoải mái nhất cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ. Đối với DVNH dành cho KHCC, 01 KHCC luôn được phục vụ trực tiếp bởi 01 nhà quản lý khách hàng. Điều đó giúp tìm ra các giải pháp để giúp cho khách hàng theo dõi, quản lý được tài sản của họ cũng như phát triển những nguồn tài sản mới cho thế hệ kế tiếp. Nói một cách khác, DVNH dành cho KHCC giải quyết tất cả các khía cạnh trong đời sống của khách hàng về mặt tài chính dưới hình thức tư vấn và trợ giúp có tính đặc thù cao. Một nhà quản lý khách hàng phải thu thập cả thông tin tài chính và thông tin cá nhân của từng khách hàng để đưa ra các đề xuất riêng cho mỗi khách hàng và kể cả gia đình của họ. Nghiệp vụ này đòi hỏi cá nhân nhà quản lý khách hàng phải có mối quan hệ riêng, toàn diện với khách hàng và điều này nằm ngoài thông lệ của DVNH bán lẻ.
Thứ ba, DVNH dành cho KHCC chú trọng các dịch vụ tiện ích bên cạnh các dịch vụ chính mà ngân hàng cung cấp, với phương châm “nghiên cứu những nhu cầu khách hàng muốn, chứ không phải nơi thuyết phục khách hàng những gì mà ngân hàng tạo ra” (Châu Đình Linh, 2015). DVNH dành cho KHCC bao gồm hầu hết các DVNH truyền thống (tiền gửi, cho vay và thanh toán), các dịch vụ quản lý tài sản (quản lý dòng tiền, quản lý danh mục đầu tư), dịch vụ tư vấn tài chính, bảo hiểm… kèm một loạt các dịch vụ khác khi khách hàng có nhu cầu (giải trí, mua sắm…). Tùy theo sự ủy thác của khách hàng, các NHTM tương đối chủ động trong việc sử dụng, định đoạt khối tài sản của khách hàng với mục tiêu sinh lời. Bên cạnh đó, khách hàng còn được sử dụng mọi tiện ích của ngân hàng như dịch vụ 24/7 hoặc sử dụng dịch vụ đồng nhất ở các quốc gia khác nhau nếu ngân hàng có mạng lưới toàn cầu.
Thứ tư, DVNH dành cho KHCC luôn bảo mật tuyệt đối các thông tin giao dịch với khách hàng. KHCC là những khách hàng luôn có giá trị tài sản lớn tại ngân hàng,
đồng thời có mối liên hệ mật thiết với ngân hàng. Nhà quản lý khách hàng là người luôn tiếp xúc và nắm bắt các thông tin và nhu cầu của không chỉ khách hàng mà nhiều khi còn là những người thân trong gia đình họ, những công việc làm ăn kinh doanh của chính khách hàng đó nếu đạt được sự tin cậy cao. Do vậy, yêu cầu bắt buộc đối với ngân hàng và nhà quản lý khách hàng là phải bảo đảm bí mật tuyệt đối các thông tin của khách hàng, chỉ sử dụng vào mục đích cung cấp dịch vụ cho khách hàng ngày càng chính xác, hiệu quả.
Thứ năm, DVNH dành cho KHCC phải được nhận diện thương hiệu, điều đó có nghĩa là ngân hàng đã công bố chính thức việc triển khai DVNH dành cho KHCC và được khách hàng nhận biết thông qua tên thương hiệu, các biểu tượng, khẩu hiệu… (không bao gồm trường hợp các ngân hàng tự phân loại và phục vụ các KHCC nhưng không hình thành thương hiệu riêng dành cho KHCC).
Như vậy, hiểu một cách chung nhất, DVNH dành cho KHCC là tất cả các loại hình DVNH hoặc gói DVNH mà các NHTM cung ứng cho KHCC nhằm đáp ứng nhu cầu của các khách hàng này và đảm bảo các đặc tính: riêng tư, tiện ích tối ưu và bảo mật tuyệt đối; đồng thời, dịch vụ đã được nhận diện thương hiệu trên thị trường.
Hiện nay, mức độ phát triển DVNH cao cấp tại các nước khác nhau cũng rất khác nhau. Tại các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Thụy Sỹ…, DVNH dành cho KHCC thường có tên gọi là dịch vụ Private Banking. Trong khi đó, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, với yêu cầu để trở thành KHCC của ngân hàng ở mức độ thấp hơn các nước trên thế giới, DVNH chưa đạt được mức độ chuyên biệt như dịch vụ Private Banking và hiện được các ngân hàng đưa ra với nhiều tên gọi khác như Priority Banking hoặc Premier Banking hoặc Imperial Banking hoặc First Class Banking…
1.2.2.2. Các dịch vụ ngân hàng dành cho khách hàng cao cấp
Các loại hình DVNH dành cho KHCC rất đa dạng.
Theo nghiên cứu của IBM (2005), các DVNH dành cho KHCC được chia thành 3 nhóm: Nhóm 1 là các DVNH cơ bản như tiền mặt, tiền gửi, thị trường tiền tệ và dịch vụ lưu ký; Nhóm 2 là dịch vụ cao cấp hơn như quản lý danh mục, môi giới và quỹ tương hỗ; Nhóm 3 là dịch vụ quản lý tài sản, từ ủy thác đến sản phẩm cấu trúc, quỹ phòng ngừa rủi ro, vốn cổ phần tư nhân và văn phòng gia đình.
Trong khi đó, G.Vento (2013) cho rằng DVNH dành cho KHCC tập trung chủ yếu vào tư vấn tài chính và quan tâm đến việc tập hợp, duy trì, dự trữ, tăng cường và chuyển đổi tài sản. Do vậy, các DVNH cung cấp gồm DVNH truyền thống, dịch vụ
môi giới, bảo hiểm (bảo hiểm tài sản, sức khỏe, cuộc sống, hưu trí), quản lý tài sản (các tài sản tài chính và phi tài chính, sản phẩm đầu tư truyền thống, sản phẩm cấu trúc và SPDV khác), tư vấn (phân bổ tài sản, cấu trúc thu nhập, thuế, ủy thác, lập kế hoạch tài chính, thừa kế, hưu trí, nhân đạo và trọng tài tranh chấp gia đình) và các dịch vụ khác đáp ứng nhu cầu của cuộc sống như đặt khách sạn, nhà hàng, định vị bất động sản, giải trí….
Tựu chung lại, tùy theo tình hình thị trường cũng như khả năng của mỗi KHCC, thậm chí theo nhu cầu của từng khách hàng mà gói dịch vụ được thiết kế và cung cấp sao cho mỗi KHCC đều cảm nhận được sự khác biệt với các khách hàng thông thường khác, về cơ bản bao gồm:
a. Các dịch vụ ngân hàng cơ bản
Các DVNH này được phát triển trên nền tảng DVNH truyền thống hiện có với những nghiên cứu cải tiến về loại hình sản phẩm, thủ tục, các bước tiến hành nghiệp vụ sao cho thời gian giao dịch của khách hàng là ít nhất mà vẫn đảm bảo hiệu quả. Các sản phẩm được thiết kế một cách linh hoạt, đa dạng hơn để đáp ứng nhu cầu của KHCC và tạo sự khác biệt với sản phẩm bán lẻ thông thường, đảm bảo yếu tố chính xác, nhanh chóng, bí mật tuyệt đối kèm theo một số ưu đãi về lãi suất, tỷ giá, phí dịch vụ… Trên cơ sở xem xét năng lực, lợi thế của ngân hàng cũng như nhu cầu, lợi ích và tâm lý của khách hàng, ngân hàng có thể thiết kế sản phẩm đặc thù dành riêng cho từng khách hàng.
* Dịch vụ nhận tiền gửi
Dịch vụ nhận tiền gửi luôn là kênh huy động vốn quan trọng của ngân hàng. Theo Luật Các TCTD năm 2010: “Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo nguyên tắc có hoàn trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận.” Như vậy, hiểu một cách chung nhất thì NHTM cung cấp dịch vụ nhận tiền gửi để giúp cho khách hàng vừa bảo toàn được tiền gốc, vừa mang lại lợi ích thêm từ lãi với cam kết hoàn trả đúng hạn theo thỏa thuận.
Đối với KHCC, do nắm giữ trong tay giá trị tài sản lớn, các khách hàng này luôn muốn dành một tỷ lệ tài sản tương đối lớn dưới dạng tiền gửi tại NHTM nhằm mục đích có một khoản thu đều đặn, ổn định, ít rủi ro. Tuy nhiên, do có khả năng nắm bắt nhanh các cơ hội đầu tư bất thường, những khách hàng này cũng thường mong muốn được cung cấp các sản phẩm tiền gửi có thể rút gốc trước hạn mà vẫn được
hưởng lãi suất có kỳ hạn. Đáp ứng nhu cầu đó, các NHTM đã phát triển nhiều loại hình dịch vụ nhận tiền gửi dành cho KHCC, như:
- Theo thời gian gửi tiền: tuần, tháng, năm
- Theo mục đích gửi tiền: tiết kiệm nhà ở, tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm trả lãi trước, tiết kiệm rút gốc linh hoạt…
- Theo loại tiền gửi: tiết kiệm bằng nội tệ và ngoại tệ
Mỗi sản phẩm tiền gửi mà NHTM cung ứng đều có những đặc điểm phù hợp với nhu cầu từng nhóm như loại hình tiền gửi bậc thang lãi suất cao, rút gốc linh hoạt… Ngân hàng cũng sẵn sàng bỏ thêm chi phí để tặng quà, ưu đãi về lãi suất, thực hiện thu chi tiền mặt tại nhà theo yêu cầu của khách hàng nhằm thu hút nguồn vốn đáng kể này. Ngân hàng cũng có thể mở cho mỗi KHCC nhiều loại tiết kiệm (hoặc sổ kiết kiệm) cho từng kỳ hạn và từng lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
* Dịch vụ cho vay
Cho vay là việc ngân hàng cấp tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Ngân hàng có thể cho vay bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, tiền có thể chuyển tới tài khoản của khách hàng hoặc tài khoản của người bán hàng cho khách hàng.
Theo Luật các TCTD năm 2010, “cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.”
Có quan điểm rằng KHCC thì không có nhu cầu vay vốn. Nhưng ngược lại, với phương châm “tiền đẻ ra tiền”, KHCC có thể tận dụng khoản tiền nhàn rỗi với mục đích đầu tư, kinh doanh. Họ sẵn sàng vay vốn các ngân hàng để bù đắp các khoản thiếu hụt tạm thời, trong đó, chủ yếu là nhu cầu xây dựng và sửa chữa nhà ở, đầu tư đất đai, mua ô tô hoặc các chi phí cá nhân khác như du học… Do vậy, các ngân hàng sẵn sàng cung cấp cho KHCC dịch vụ cho vay phù hợp như:
- Thấu chi: Thấu chi là hình thức ngân hàng cho phép KHCC được chi vượt quá số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong khoảng thời gian xác định (giới hạn này là hạn mức thấu chi).
- Cho vay qua thẻ tín dụng: Thẻ tín dụng là một hình thức của tín dụng theo hạn mức. Ngân hàng cấp cho KHCC hạn mức nhất định trong khoản từ một đến vài
tháng để phục vụ nhu cầu chi tiêu. Sau thời hạn nhất định, chủ thẻ phải trả nợ cho ngân hàng, lúc đó hạn mức trên thẻ được lặp lại (hạn mức tuần hoàn).
- Cho vay khác: cho vay mua nhà, mua tô tô, cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay du học, cho vay cầm cố giấy tờ có giá…
Với uy tín và khả năng tài chính của mình, các KHCC thường được ngân hàng cấp cho khoản vay tín chấp thông qua hình thức thấu chi tài khoản, thẻ tín dụng… với hạn mức cao (lên đến vài trăm triệu đồng phụ thuộc vào nguồn thu nhập hoặc giá trị tài sản của khách hàng tại ngân hàng) hoặc cho vay lãi suất ưu đãi thấp hơn thị trường. Ngân hàng cũng sẵn sàng liên kết với các nhà cung cấp để đưa ra những chương trình khuyến mại, ưu đãi dành riêng cho khách hàng.
* Dịch vụ thanh toán
Thanh toán đơn giản là thuật ngữ ngắn gọn mô tả việc chuyển giao các phương tiện tài chính từ một bên sang một bên khác. Theo Luật các TCTD, “Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản là việc cung ứng phương tiện thanh toán; thực hiện dịch vụ thanh toán séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng, thư tín dụng và các dịch vụ thanh toán khác cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.”
Có hai loại hình thanh toán là thanh toán bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt. Trong đó, “thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng là sự vận động của tiền tệ, qua chức năng phương tiện thanh toán, được thực hiện qua bút toán ghi sổ bằng cách trích chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của NHTM” (Phan Thị Thu Hà, 2013).
Một số dịch vụ thanh toán chính mà các ngân hàng cung cấp cho KHCC bao gồm:
- Dịch vụ thanh toán séc: thường được dùng để chi trả hóa đơn và cho các khoản thanh toán có giá trị thấp. Theo đối tượng thụ hưởng, séc có thể gồm 03 loại: séc lệnh (trả tiền cho cá nhân hoặc thực thể có tên ghi trên séc hoặc trả cho bên được chuyển nhượng), séc vô danh (trả tiền cho người nắm giữ tờ séc) và séc đích danh (trả tiền cho người thụ hưởng được ghi trên séc).
- Dịch vụ thanh toán bằng ủy nhiệm chi: là phương tiện thanh toán mà KHCC có thể yêu cầu trích một số tiền nhất định trên tài khoản của mình tại ngân hàng để trả cho người thụ hưởng theo lệnh thanh toán gửi cho ngân hàng.