Để thực hiện được các mô hình sản xuất theo công nghệ cao, các tỉnh cần chú trọng cần xây dựng được một đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Đây được coi là nội dung song hành với nâng cao trình độ khoa học, công nghệ. Thực trạng hiện nay hầu hết các tỉnh trong vùng đều thiếu cán bộ kỹ thuật có trình độ để trực tiếp chỉ đạo sản xuất. Bởi vậy, cần có những chế độ đãi ngộ cụ thể để thu hút các cán bộ kỹ thuật được đào tạo trở về công tác tại các vùng nông thôn, tham gia trực tiếp chỉ đạo sản xuất. Đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ là người địa phương và bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ hiện có (để cập nhật những tiến bộ kỹ thuật mới) vừa thiết thực lại dễ bố trí ổn định cuộc sống. Với cán bộ kỹ thuật trực tiếp chỉ đạo sản xuất nên có chế độ thưởng (ngoài thu nhập thường xuyên) theo một tỷ lệ nào đó của lợi nhuận mà họ góp phần tạo ra. Với cán bộ quản lý, khi trên địa bàn họ phụ trách có triển khai các chương trình, dự án ... thì ngoài lương và phụ cấp hiện có cần có bồi dưỡng thêm theo công việc mà họ tham gia.
Nhìn chung, trình độ kỹ thuật và khả năng tiếp thu tiến bộ mới còn nhiều hạn chế. Công tác khuyến nông, lâm, ngoài việc xây dựng các mô hình trình diễn, mở các lớp tập huấn cần tạo điều kiện thuận lợi (về vốn, tiêu thụ sản phẩm...) để khuyến khích người dân hăng say áp dụng tiến bộ mới, tạo ra lực hút từ sản xuất đối với khoa học công nghệ, xuất phát từ thực tế sản xuất mà người dân thấy cần thiết có sự hỗ trợ về khoa học công nghệ. Thông qua đó mà trình độ kỹ thuật của người dân được nâng lên.
Quá trình xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình lâu dài. Giáo dục, đào tạo chịu ảnh hưởng lớn trong điều kiện nền kinh tế thấp, mới chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta. Song bản thân nó đang được coi là giải pháp đột phá cho phát triển của đất nước, rút ngắn trình độ phát triển của các quốc gia. Như vậy giải pháp về phát triển nguồn nhân lực phải bao gồm nhiều hình thức, chế độ giáo dục: giáo dục bắt buộc tại các trường phổ thông, giáo dục tại gia đình và giáo dục đào tạo tại các doanh nghiệp. Trong thời gian qua, do ngân sách hầu hết các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ chưa cân đối được thu, chi, còn phải nhận trợ cấp của Trung ương nên kinh phí đầu tư cho giáo
dục, đào tạo mới đáp ứng các định mức tối thiểu, đầu tư cho đào tạo nghề thấp, kết quả rất hạn chế.
Do đó, trong thời gian tới cần xác định một tỷ lệ trong số ngân sách thu vượt để bổ sung cho hoạt động giáo dục đào tạo. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến hình thức giáo dục tại gia đình mà Nhật Bản là nước đã thực hiện rất thành công, có thể áp dụng ở các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ, nơi có truyền thống hiếu học. Đồng thời, để nhanh chóng tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cần áp dụng rộng rãi giáo dục và đào tạo tại doanh nghiệp theo ba nội dung cơ bản: tác phong hóa, thực tế hoá và tập đoàn hoá (phát huy sức mạnh của tập thể) và với các hình thức: đào tạo trực tiếp tại chỗ; đào tạo thông qua định kỳ luân phiên đổi việc. Đào tạo tại doanh nghiệp góp phần khắc phục khiếm khuyết trong đào tạo ở nhà trường, trực tiếp tác động và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các tỉnh cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo lao động theo hướng này trên cơ sở sớm xây dựng chiến lược phát triển nhân lực của tỉnh và thực hiện rộng rãi thông tin, thị trường lao động, điều tra cơ bản về ngành nghề và hỗ trợ đào tạo trước tuyển dụng, nhất là ở các khu công nghiệp. Trong chiến lược phát triển nhân lực, quá trình tuần tự theo bốn giai đoạn: đặt nền móng; phát triển số lượng; nâng cao chất lượng và tiên tiến về chất lượng. Hàn Quốc, được coi là “con rồng” châu Á nhưng quá trình trên cũng phải trải qua vài chục năm: giai đoạn đặt nền móng từ năm 1945 - 1960; giai đoạn phát triển số lượng 1961 - 1979; giai đoạn nâng cao chất lượng 1980 - 1990 và giai đoạn tiên tiến sau năm 1990 đến nay. Với mục tiêu phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ đến năm 2020 đã xác định, cần rút ngắn giai đoạn phát triển nguồn nhân lực kể trên; kết hợp ngay giai đoạn phát triển số lượng và giai đoạn nâng cao chất lượng và hướng phát triển một bộ phận đến giai đoạn tiên tiến. Cơ cấu phát triển như vậy mới đảm bảo phát huy lợi thế so sánh, phát triển các ngành mới, có hàm lượng chất xám cao, các ngành dịch vụ quan trọng, đi nhanh tới hiện đại. Để thực hiện việc phát triển nhân lực kết hợp rút ngắn giai đoạn, yếu tố quan trọng là phải đào tạo cán bộ quản lý đạt trình độ cao, ưu đãi, thu hút và sử dụng nhân tài. Trên thực tế, đội ngũ cán bộ lãnh đạo các sở, ban, ngành và huyện,
thị xã còn nhiều bất cập; một bộ phận cán bộ, công chức chậm đổi mới, còn chịu ảnh hưởng nhiều của cơ chế cũ, chưa thấy rõ được tư tưởng thân thiện doanh nghiệp, tinh thần trách nhiệm, tính đột phát trong quản lý. Do đó, các tỉnh cần có chiến lược và kiên quyết xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đảm bảo các tiêu chuẩn trong thời đại mới; xây dựng chương trình đào tạo doanh nhân, thu hút, đào tạo các chuyên gia giỏi; thực hiện chính sách phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng trẻ.
3.3.2. Giải pháp về hệ thống lưu thông phân phối sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ
Có thể bạn quan tâm!
- Phát Triển Ngành Công Nghiệp Chế Biến Nông, Lâm Sản Các Tỉnh Vùng Bắc Trung Bộ Trên Cơ Sở Ứng Dụng Các Tiến Bộ Kỹ Thuật, Kết Hợp Với Nhập
- Phát Triển Công Nghiệp Chế Biến Nông Lâm Sản Gắn Với Vùng Nguyên Liệu
- Huy Động Và Điều Chỉnh Cơ Cấu Đầu Tư Nhằm Phát Triển Công Nghiệp Chế Biến Nông, Lâm Sản Trên Địa Bàn Các Tỉnh Bắc Trung Bộ
- Phát Triển Hệ Thống Kết Cấu Hạ Tầng Thương Mại, Đặc Biệt Là Ở Nông Thôn, Vùng Sâu, Vùng Xa
- Từng Bước Phát Triển Hình Thức Thương Mại Điện Tử Trong Giao Dịch Sản Phẩm Của Công Nghiệp Chế Biến Nông, Lâm Sản
- Cải Tiến Thủ Tục Xuất Nhập Khẩu, Nâng Cao Vai Trò Điều Tiết Giá Của Nhà Nước Phù Hợp Với Sự Biến Động Của Giá Cả Trên Thị Trường
Xem toàn bộ 270 trang tài liệu này.
Với chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, lực lượng tham gia lưu thông sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản hiện nay rất phong phú và đa dạng, bao gồm thương nghiệp nhà nước, thương nghiệp HTX, thương nghiệp tư nhân và các hình thức hỗn hợp khác. Ngoài ra còn có sự mua bán trao đổi trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Mỗi một lực lượng trên là một bộ phận hợp thành hệ thống lưu thông hàng hóa nói chung và sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng trên thị trường. Vì vậy, đổi mới hệ thống lưu thông sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên thị trường, các tỉnh cần quán triệt những vấn đề sau:
- Phải đáp ứng được yêu cầu tiêu thụ hết sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản cho nông dân, chủ yếu qua hình thức hợp đồng bao tiêu.
- Các lực lượng lưu thông sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản phải được tổ chức có mặt đều khắp các vùng nông thôn, kể cả vùng xa, vùng sâu; nhưng lại phải hướng vào các tụ điểm lưu thông hàng hóa, nơi sản xuất và tiêu thụ hàng hóa tập trung, tạo điều kiện gắn sản xuất với lưu thông; liên kết gắn bó các lực lượng lưu thông hàng hóa với hệ thống chợ, cửa hàng, cửa hiệu ở các thị trấn, thị tứ bảo đảm phát huy tác dụng với việc phát triển sản xuất hàng hóa sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
- Khuyến khích mọi thành phần, mọi lực lượng tham gia lưu thông sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản một cách bình đẳng, từng bước phát huy
vai trò nòng cốt, định hướng của thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán dưới sự quản lý thống nhất của Nhà nước, khắc phục tình trạng khoán trắng cho nông dân và tư thương.
- Bộ máy tổ chức của hệ thống lưu thông sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản phải gọn nhẹ, thích ứng với hoạt động kinh doanh sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản, đảm bảo phát huy được hiệu lực kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Trên quan điểm quán triệt những nội dung đó, các tỉnh cần rà soát lại mạng lưới lưu thông sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản hiện có, tổ chức xây dựng lại cho thích ứng với cơ chế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
3.3.2.1. Hoàn thiện hệ thống lưu thông sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản
Thứ nhất, đổi mới hệ thống thương nghiệp nhà nước. Các tổ chức thương mại nhà nước, nhất là các doanh nghiệp lớn kinh doanh sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản có vai trò quan trọng trong việc điều hòa cung cầu, ổn định giá cả sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản.
Các tổ chức thương nghiệp này cùng với hệ thống các HTX thương nghiệp phải vươn lên chi phối thị trường hàng. hóa nông thôn, thực hiện được nhiệm vụ thu mua, nắm được những sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản quan trọng, có ý nghĩa chiến lược ở những vùng sản xuất tập trung, có tỷ suất hàng hóa cao để cung ứng cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Trên quan điểm đó, các tỉnh cần phải củng cố tổ chức các đơn vị thương nghiệp nhà nước làm nhiệm vụ lưu thông nông phẩm, đặc biệt là trên địa bàn nông thôn, theo hướng phát triển mạng lưới cửa hàng chuyên doanh tổng hợp ở các chợ, cụm kinh tế thương mại dịch vụ ở các thị trấn, thị tứ, các vùng qui hoạch sản xuất sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản tập trung; phát triển mạnh một số công ty thương nghiệp mới hướng vào kinh doanh nội địa và xuất khẩu các mặt sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở những vùng có khối lượng hàng
hóa lớn. Cơ cấu tổ chức của các đơn vị thương nghiệp nhà nước cần hết sức gọn nhẹ và hiệu quả, tránh tình trạng tổ chức chồng chéo, giẫm chân nhau như trước đây. Đặc biệt cần chú trọng phát triển mạnh mạng lưới đại lý mua bán hàng hóa, xác định đây là yếu tố quan trọng để mở rộng thị trường, thúc đẩy lưu thông hàng hóa nói chung và sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng phát triển. Khi chính sách thương mại trong đó có chính sách xuất nhập khẩu ngày càng thông thoáng và ổn định thì cơ hội kinh doanh theo kiểu "chụp giật" hay "đánh quả" như trước đây sẽ ngày càng ít đi. Trong điều kiện đó, doanh nghiệp chỉ có thể tăng trưởng khi chiếm lĩnh được thị trường, mở rộng được mạng lưới kinh doanh, phát triển được bạn hàng. Đồng thời mở rộng mạng lưới mua bán hoặc đại lý mua bán ở nông thôn. Cần phải mở rộng mạng lưới kinh doanh đến các xã và cụm xã để doanh nghiệp nhà nước thực sự trở thành doanh nghiệp nòng cốt trên thị trường nông thôn, trước hết là trong lĩnh vực tiêu thụ sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản và cung ứng vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Với tiềm lực về vốn và nguồn nhân lực, các đơn vị thương nghiệp nhà nước cần phải đi đầu trong việc nghiên cứu và dự báo thị trường để có kế hoạch tạo chân hàng ổn định, kịp thời điều tiết thị trường khi có biến động. Phương thức trao đổi mua bán với nông dân cần linh hoạt, giản tiện phù hợp với phương thức sản xuất và thu hoạch của nông dân ở từng vùng, từng miền. Cần phải bám sát các khu vực chuyên canh có nhiều loại sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản hàng hóa dồi dào; dựa vào các tổ chức chính quyền địa phương, các đơn vị và các hộ nông dân sản xuất giỏi để xây dựng những quan hệ bạn hàng tin cậy bằng các hợp đồng trao đổi trợ giá buôn bán hai chiều.
Thông qua việc ký kết và thực hiện các hợp đồng kinh tế trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế giữa các bên, thương nghiệp nhà nước cần liên kết với các thành phần thương nghiệp khác đang hoạt động trên địa bàn nông thôn dưới các hình thức tô nhượng, đại lý, gia công đặt hàng, xây dựng các xí nghiệp chung về chế biến sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản... qua đó thương nghiệp nhà nước thực hiện việc hỗ trợ, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển đúng
hướng, đảm bảo ổn định thị trường, lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng, theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng.
Củng cố các tổ chức thương nghiệp nhà nước kinh doanh mặt hàng quan trọng thiết yếu trên địa bàn nông thôn. Đa dạng hóa các hình thức liên kết giữa thương nghiệp nhà nước với HTX và các thành phần kinh tế khác, bám sát thị trường, giải quyết tốt đầu ra, có lực lượng dự trữ đủ sức can thiệp vào thị trường khi cần thiết nhằm hạn chế cao nhất sự đột biến giá cả, chống đầu cơ, không để nông dân bị ép cấp, ép giá khi bán sản phẩm và mua vật tư.
Thứ hai là đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của HTX thương nghiệp. Trong điều kiện kinh tế thị trường thì việc xây dựng HTX cũng là nhu cầu tự bảo hộ đối với cạnh tranh gay gắt trên thị trường: nông dân thông qua liên kết và hợp tác, dựa vào sức của tập thể để đối phó với những rủi ro của thiên nhiên và thị trường. Việc tổ chức lại thương nghiệp HTX cần phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc của chế độ hợp tác: tự nguyện tham gia, tự do rút khỏi, dân chủ quản lý lấy phục vụ làm mục đích chính, lợi nhuận của HTX được chia cho tất cả xã viên căn cứ vào vốn đóng góp và công việc được giao. Cần đa dạng hóa mô hình tổ chức hợp tác phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội ở từng địa phương trên cơ sở nhu cầu lưu thông hàng hóa trên thị trường và nguyện vọng của xã viên. Bộ máy tổ chức của HTX mua bán phải gọn nhẹ, thiết thực, đội ngũ cán bộ nhân viên phải được đào tạo và đào tạo lại cho thích hợp để đủ sức quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của HTX theo cơ chế thị trường.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của các HTX thương mại - dịch vụ, do đó cần theo hướng sau: trên cơ sở các loại hình HTX hiện có (HTX nông nghiệp, HTX mua bán) tổ chức lại thành các HTX cổ phần ở nông thôn, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ “hai đầu” cho kinh tế hộ nông dân bằng phương thức đại lý hoặc hợp đồng tiêu thụ sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản, cung ứng vật tư nông nghiệp và hàng công nghiệp tiêu dùng, đồng thời đổi mới các cơ chế góp vốn, cơ chế quản lý, cơ chế sử dụng lao động và cơ chế phân phối của HTX cho phù hợp với cơ chế thị trường.
Hoạt động của HTX thương nghiệp trên địa bàn nông thôn cần phải lấy mục đích phục vụ sản xuất và tiêu dùng cho từng hộ nông dân, là cầu nối giữa nông dân và thị trường, là nơi cung cấp thông tin về nhu cầu thị trường, giá cả, chất lượng sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản cho nông dân; hướng các hoạt động vào những khâu, những lĩnh vực mà kinh tế hộ không có điều kiện làm hoặc làm không có hiệu quả. Cần phải chủ động khai thác các nguồn hàng và khai thác thị trường, liên kết tiêu thụ với các chợ đầu mối, thương lái, các công ty quốc doanh các nhà máy chế biến sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản xuất khẩu dưới nhiều hình thức nhằm khai thác hết các khu vực thị trường để bao tiêu sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản cho hộ nông dân cũng như cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho họ. HTX thương nghiệp cần bám sát địa bàn sản xuất của hộ nông dân, kết hợp tổ chức mua bán tại cửa hàng với mua bán lưu động ở các vùng sâu, vùng xa để giúp nông dân có thể bán sản phẩm tại chỗ, hạn chế tối đa sự chèn ép của tư thương. Hiện nay một số HTX đã chủ động khai thác cả thị trường ngoài nước, tham gia xuất nhập khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản, phân bón, thuốc trừ sâu, tạo điều kiện cho xã viên và nông dân tiếp cận với điều kiện thị trường cạnh tranh quốc tế trong xu thế tự do hóa thương mại để định hướng sản xuất tốt hơn, bám sát nhu cầu thị trường.
Thứ ba là thương nghiệp tư nhân. Vấn đề đặt ra là cần phải đổi mới tổ chức quản lý đội ngũ này sao cho họ hoạt động hiệu quả hơn và hạn chế những mặt tiêu cực như gian lận thương mại, trốn thuế, lừa đảo, lợi dụng thời cơ để ép giá nông dân.
Cần rà soát lại và tiến hành cho đăng ký toàn bộ các cơ sở thương nghiệp tư nhân, sao cho mọi tổ chức thương nhân lớn nhỏ đều phải đăng ký kinh doanh theo đúng pháp luật, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối với lực lượng này. Cần huy động và tạo điều kiện để mạng lưới tư thương (cá nhân và hộ kinh doanh) tích cực tham gia kinh doanh theo định hướng của Nhà nước về phát triển lưu thông hàng hóa và thị trường nông thôn, miền núi nói chung và lưu thông sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng, thực hiện tốt các nghĩa vụ về thuế đối
với Nhà nước. Cần có các chính sách khuyến khích lực lượng này cùng với các HTX nông thôn làm bạn hàng lâu dài và trở thành mạng lưới đại lý ổn định hoặc đối tác ký kết và thực hiện hợp đồng của các doanh nghiệp trong việc tiêu thụ sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản, cung ứng vật tư hàng công nghiệp tiêu dùng cho nông dân.
Ngoài ra, các tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản và thương mại cũng là một yếu tố mới, quan trọng trong hệ thống lưu thông sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Các doanh nghiệp nước ngoài với ưu thế về vốn và công nghệ, kỹ thuật hiện đại không những giúp nông dân tiếp cận với phương thức sản xuất kinh doanh tiên tiến theo hướng chuyên môn hóa, tập trung chuyên canh theo mô hình nông nghiệp công nghệ cao, mà còn là một kênh phân phối sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản quan trọng do họ có sẵn bạn hàng, lại am hiểu thị trường và các thể chế thương mại quốc tế. Vì thế, cần tạo môi trường pháp lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản hàng hoá, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam cho phép.
3.3.2.2. Đẩy mạnh xây dựng các liên kết kinh tế thông qua hợp đồng giữa những người sản xuất và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản
Sự liên kết này về thực chất là nhằm gắn chặt quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản, loại bỏ các khâu trung gian trong quá trình lưu thông; qua đó nâng cao giá trị sản phẩm, cùng phân chia lợi nhuận, chia sẻ rủi ro và tạo động lực cho phát triển. Để đẩy mạnh việc ký kết và thực hiện hợp đồng tiêu thụ sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản và để phương thức này thực sự đi vào cuộc sống, đem lại hiệu quả rõ rệt và góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa,... tạo lập các quan hệ gắn kết chặt chẽ và ổn định giữa sản xuất và lưu thông, các tỉnh cần: