Từng Bước Phát Triển Hình Thức Thương Mại Điện Tử Trong Giao Dịch Sản Phẩm Của Công Nghiệp Chế Biến Nông, Lâm Sản


3.3.3.4. Từng bước phát triển hình thức thương mại điện tử trong giao dịch sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản

Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, khả năng đẩy mạnh xuất khẩu phát triển kinh tế của mỗi quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào việc tiếp cận và nắm bắt kịp thời, đầy đủ thông tin về mọi diễn biến trên thị trường thế giới. Phát triển thương mại điện tử là giải pháp quan trọng giúp các doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận với nguồn thông tin phong phú trên toàn cầu trong khoảng thời gian ngắn nhất và liên tục. Thương mại điện tử còn làm tăng độ linh hoạt và giảm bớt những chi phí không cần thiết trong các hoạt động kinh tế, tạo cơ hội tìm kiếm đối tác, là phương tiện hữu hiệu để xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm, là môi trường tốt để cung- cầu kết nối với nhau nhanh nhất với chi phí rẻ nhất.

Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh điện tử, các tỉnh cần tạo hành lang pháp lý, điều chỉnh và đảm bảo thực thi các quyết định về những vấn đề cơ bản có liên quan, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ thống tin, hỗ trợ doanh nghiệp trong các giao dịch quốc tế, đặc biệt là đào tạo nguồn nhân lực có các kỹ năng về giao dịch quốc tế qua mạng.

Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, thương mại điện tử tuy mang rất nhiều lợi ích nhưng cũng chỉ là công cụ giúp quá trình kinh doanh được thuận tiện nhanh chóng và có hiệu quả hơn chứ không thể thay thế hoàn toàn các kỹ năng và hình thức thương mại truyền thống. Thương mại truyền thống với nhưng ưu thế riêng sẽ vẫn song hành phát triển cùng thương mại điện tử, tạo thành một hệ thống thương mại thống nhất bổ sung cho nhau. Do vậy, để đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản góp phần thúc đẩy sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản hàng hóa phát triển cần phải phát triển cả thương mại điện tử, hoàn thiện cả hạ tầng công nghệ - thông tin viễn thông lẫn các chính sách thương mại trong tiêu thụ sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản.


3.3.4. Giải pháp cho doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản và kiến nghị với Nhà nước

3.3.4.1. Giải pháp về phía các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản

Doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản phải nhận thức được những cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập, đặc biệt là áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt khi nước ta mở cửa thị trường, trước hết là đối với AFTA và thực hiện Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ và cam kết WTO. Vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp chế biến nông lâm sản trên địa bàn cần thực hiện các biện pháp sau:

Thứ nhất, các doanh nghiệp cần tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là một trong những giải pháp quan trọng để doanh nghiệp tổ chức kinh doanh có hiệu quả nhất trong điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập hiện nay. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường kinh doanh, phân tích so sánh số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp đối với các doanh nghiệp. Để công tác nghiên cứu thị trường đạt hiệu quả cao, các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh cần xác định đúng thị trường mà doanh nghiệp tập trung cung cấp. Việc xác định thị trường này có ý nghĩa lớn, nó giúp cho doanh nghiệp lựa chọn đúng thời cơ hấp dẫn, phù hợp với điểm mạnh, tránh được những điểm yếu của doanh nghiệp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 270 trang tài liệu này.

Phương châm cơ bản trong hoạt động thị trường trong thời gian tới là nên giữ vững thị trường cũ, từng bước mở rộng thị trường mới; chuyển từ thế bị động sang chủ động.

Đối với thị trường nước ngoài cần: Phối hợp tốt trong việc trao đổi thông tin kinh tế, giữa các doanh nghiệp và các tham tán thương mại ở các nước; Tích cực tham gia các hội chợ - triển lãm quốc tế ở cả trong nước và nước ngoài. Đặc biệt, đối với các thị trường mới như thị trường Mỹ, cần nhanh chóng tìm hiểu kỹ các nguyên tắc, luật lệ chung của liên bang cũng như luật riêng của từng bang trong các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, kể cả các tập quán và xu hướng tiêu dùng của từng vùng, chuẩn bị tốt cho quá trình xuất khẩu sắp tới; khai thác tốt thông tin

Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ - 25


trên mạng Intemet để kịp thời cập nhật các thay đổi trong xu hướng tiêu dùng và thời trang của các thị trường chính trên thế giới.

Đối với thị trường trong nước: Thị trường trong nước có vai trò rất quan trọng đối với ngành công nghiệp chế biến, không chỉ ở tiềm năng tiêu dùng mà còn vì tìm được một kẽ hở của thị trường quốc tế ở thời điểm hiện tại là rất khó khăn. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần làm tốt công tác dự báo thị trường, bao gồm các công việc như điều tra nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư, ở cả vùng đô thị lẫn nông thôn kể cả vùng đồng bào các dân tộc. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất vẫn là có được một cơ cấu sản phẩm phù hợp với sức mua còn chưa cao của người dân, để có thể chiếm lĩnh lại được thị trường trong nước đầy tiềm năng này.

Thứ hai, xây dựng một chiến lược sản phẩm đúng. Chiến lược sản phẩm là tổng thể các biện pháp về tổ chức, kinh tế, kế hoạch. nhằm thực hiện việc nghiên cứu và nắm bắt nhu cầu thị trường, tổ chức sản xuất, chuẩn bị hàng hoá và xuất bán theo yêu cầu của khách hàng với chi phí kinh doanh nhỏ nhất. Do vậy, các doanh nghiệp cần tập trung vào các nội dung sau:

- Cải thiện chất lượng sản phẩm: Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là: EU, Nhật Bản... và triển vọng là Mỹ đều là những thị trường rất “khó tính”, đòi hỏi cao về chất lượng. Người tiêu dùng ở các thị trường này có khả năng thanh toán cao, nên yếu tố chất lượng và nhãn mác sản phẩm được chú ý hơn là giá cả. Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm: kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên phụ liệu, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh xuống phẩm cấp; tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì...; tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu; bảo đảm chất lượng hàng xuất khẩu và giữ tín trên thị trường thế giới.

- Tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín bằng nhãn mác sản phẩm trên thị trường quốc tế. Muốn vậy, cần tập trung cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế; tổ chức tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hoá.


- Đảm bảo về yêu cầu giao hàng. Giao hàng đúng thời hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm chế biến nông, lâm sản bởi vì yếu tố thời vụ và phù hợp thời trang là một trong những yếu tố quyết định về sức cạnh tranh của loại sản phẩm này.

- Duy trì lợi thế về giá nhân công trong chi phí sản phẩm. Lợi thế về giá nhân công phải đặt trong mối hiệu quả với các lợi thế khác như lao động có kỹ năng, chất lượng sản phẩm và dịch vụ giao hàng đảm bảo tốt, tiết kiệm các chi phí khác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

Thứ ba, tổ chức tốt công tác tiếp thị và phân phối sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp, hoạt động tiếp thị phải được coi trọng và trở thành một công tác không thể thiếu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; Vì vậy, mỗi doanh nghiệp cần thành lập phòng hay tổ chuyên trách về thị trường. Hoạt động của nhóm thị trường chủ yếu là: Nắm bắt kịp thời những thay đổi về nhu cầu trong phân khúc thị trường mà doanh nghiệp đảm nhận, để xác định một cơ cấu sản phẩm hợp lý; Theo dõi các đối thủ cạnh tranh để có những phản ứng linh hoạt trong chiến lược điều chỉnh giá; Chuẩn bị kế hoạch cho các hoạt động khuếch trương bao gồm quảng cáo, giới thiệu và có các chính sách khuyến mại thích hợp mỗi khi có sản phẩm mới; Tố chức mạng lưới tiêu thụ, có các mối liên hệ với những khách hàng lớn (tổ chức hội nghị khách hàng)...

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống thông tin và điều hành kinh doanh. Để thúc đẩy hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản cần phải xây dựng được hệ thống thông tin như: thông tin về môi trường kinh doanh, chính trị, văn hóa, xã hội và thông tin về môi trường kinh tế, đối thủ cạnh tranh trên thị trường để doanh nghiệp có phương hướng kinh doanh thích hợp; thông tin về tình hình sử dụng mặt hàng kinh doanh của mình; thông tin về hệ thống phân phối; thông tin về tình hình và viễn cảnh của thị trường, nó sẽ giúp cho các doanh nghiệp thương mại, cân nhắc khả năng thâm nhập vào thị trường đó; thông tin về hệ thống giao thông vận tải; thông tin về giá cả mặt hàng hiện hành.


Thứ năm, nâng cao trình độ, năng lực kinh doanh, điều hành quản lý doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản, đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí thấp nhất; nâng cao chất lượng và quản lý nguồn nhân lực trong doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản, chú trọng đến những sang kiến cải tiến của người lao động ở các khâu trong hoạt động của doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản.

Thứ sáu, xây dựng nền văn hoá của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị tinh thần mang đặc trưng riêng của doanh nghiệp có tác động tới tình cảm, lý trí và hành vi của tất cả các thành viên trong doanh nghiệp, tạo nên cái bản sắc của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp là tài sản tinh thần của doanh nghiệp, là phương thức sinh hoạt và hoạt động chung của doanh nghiệp, đưa hoạt động của doanh nghiệp vào nề nếp và xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa các thành viên của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành mục tiêu, chiến lược và chính sánh, tạo ra tính định hướng chiến lược cho bản thân doanh nghiệp và việc sử dụng đội ngũ lao động cùng các yếu tố khác, nó tạo ra bầu không khí hoạt động thống nhất, đồng tâm của mọi thành viên trong doanh nghiệp bằng hệ thống các giá trị chuẩn mực chung, khơi dậy, động viên, tạo điều kiện cho mọi người hợp tác với nhau cùng làm việc tốt và thúc đẩy họ vươn tới thành công. Văn hóa doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp, tính hiệu quả của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố văn hóa. Văn hóa doanh nghiệp di truyền, bảo tồn cái bản sắc của doanh nghiệp qua nhiều thế hệ thành viên, tạo khả năng phát triển bền vững của doanh nghiệp.

Nếu doanh nghiệp có nền văn hoá vững chắc, thì tập thể người lao động sẽ dễ dàng thống nhất trong hành động. Sự coi trọng các giá trị chuẩn mực chung sẽ thúc đẩy mọi thành viên trong tổ chức cùng làm việc tốt và tạo dựng được phong cách kinh doanh riêng của doanh nghiệp và uy tín đối với khách hàng. Xây dựng được nền văn hoá của doanh nghiệp sẽ cho phép các doanh nghiệp sử dụng và phát triển tiềm năng đa dạng và vô tận của con người - nguồn vốn quan trọng nhất của mỗi tổ chức kinh doanh. Các giá trị chung của tổ chức như: triết lý kinh doanh,


phong tục, thói quen,… sẽ tạo ra những ảnh hưởng quyết định đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đảm bảo sự thành công cho doanh nghiệp.

Thứ bảy, hạ thấp chi phí lưu thông hàng hoá. Các doanh nghiệp cần tiến hành theo các hướng: chọn địa bàn kinh doanh, xây dựng hệ thống kho tàng, cửa hàng, cửa hiệu hợp lý nhằm đảm bảo chi phí vận chuyển, dự trữ và bảo quản hàng hoá thấp, đồng thời thuận tiện cho việc mua bán, đi lại của khách hàng; cần có các biện pháp giảm chi phí bảo quản, thu mua, tiêu thụ; và áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ mới trong bảo quản hàng hoá, tăng cường bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ thuật, nghiệp vụ của những người làm công tác kho; giảm chi phí hao hụt sản phẩm: hao hụt có liên quan đến nhiều khâu, nhiều yếu tố, đặc biệt phải quan tâm đến điều kiện kỹ thuật.

3.3.4.2. Nhà nước cho xây dựng cơ chế quản lý vùng Bắc Trung Bộ trong phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản

Để tăng cường liên kết vùng và tổ chức quản lý vùng, nhất là cơ chế phối hợp liên vùng, không chia cắt theo địa giới hành chính, phát huy các lợi thế so sánh của từng tỉnh trong thế liên kết chung của vùng; đồng thời, phát huy nhanh những lợi thế so sánh của vùng trong điều kiện hội nhập, Chính phủ cần có chủ trương cho phép thí điểm thực hiện một số cơ chế chính sách mới nhằm tạo điều kiện phát triển vùng, và rút kinh nghiệm để ban hành chính sách chung của cả nước.

- Thiết lập cơ cấu điều phối cấp vùng. Cơ cấu này có chức năng phối hợp về qui hoạch trên tầm nhìn toàn vùng, thiết lập và điều hành các quĩ tài chính của vùng; xây dựng khuôn khổ chính sách; tổ chức, thúc đẩy các hợp tác toàn diện về phát triển hạ tầng, về liên kết, hợp tác kinh tế, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu và triển khai... ở cả hai bình diện: vĩ mô và vi mô.

Thành viên của cơ cấu này là Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố. Chủ tịch của cơ cấu hoạt động theo nhiệm kỳ luân phiên giữa các tỉnh. Các quyết định dựa trên nguyên tắc đồng thuận.

- Tổ chức diễn đàn phát triển kinh tế vùng hằng năm. Các thành viên diễn đàn bao gồm: các nhà quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu, các nhà doanh nghiệp.


Diễn đàn cần phải thu hút được nhiều ý kiến đa dạng và có kết luận về những chủ điểm quan trọng. Diễn đàn cũng là cơ hội để doanh nghiệp tìm kiếm các cơ hội hợp tác, liên kết.

- Thiết lập các quĩ tài chính phục vụ mục tiêu phát triển chung của toàn vùng. Quĩ được hình thành chủ yếu từ các nguồn: đóng góp từ ngân sách của các địa phương; đóng góp của các doanh nghiệp trên địa bàn; tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, cam kết hỗ trợ của Trung ương....

Quĩ này có mục tiêu đầu tư trực tiếp vào các hạng mục hạ tầng có tác động chung đến sự phát triển của vùng. Cũng có thể thiết lập quĩ nghiên cứu khoa học nhằm tài trợ các dự án nghiên cứu chung của toàn vùng...

- Đầu tư đầy đủ các nguồn lực cho công tác qui hoạch (và tái qui hoạch) trên cơ sở tầm nhìn toàn vùng. Tránh tính chất cát cứ của qui hoạch. Một việc cần tiến hành ngay là khảo sát công phu, toàn diện về lợi thế vùng, lợi thế so sánh của từng tỉnh. Trên cơ sở đó rà soát lại các qui hoạch hiện có, điều chỉnh qui hoạch để phát huy được tốt nhất được các lợi thế đặc biệt.

- Thiết kế cơ chế kết hợp và chia sẻ lợi ích giữa các địa phương để khuyến khích hợp tác thay vì cạnh tranh chia sẻ thị trường. Đây là một vấn đề lớn, thậm chí rất lớn. Nếu không giải được bài toán này thì khi có mâu thuẫn lợi ích của vùng với lợi ích địa phương, các địa phương cũng không thể hi sinh những lợi ích của mình. Lấy ví dụ đơn giản: việc phát triển cảng biển, nếu địa phương nào cũng có cảng thì sẽ không thể nào có cảng lớn vì thị trường bị chia sẻ.

- Phát triển mạnh hạ tầng giao thông liên tỉnh. Do địa hình trải dài, dễ bị chia cắt vì thiên tai nên việc phát triển hạ tầng giao thông nhằm giảm chi phí vận chuyển, rút ngắn thời gian giao thông phải được coi là một trong những ưu tiên chiến lược. Tính đến nay, các địa phương đã có những dự án xây dựng các tuyến đường cao tốc liên tỉnh.

- Phát huy ảnh hưởng và đẩy mạnh liên kết các trung tâm. Do hoàn cảnh lịch sử, miền Trung đã hình thành được một số trung tâm lớn. Tuy nhiên, quá trình chia tách các tỉnh; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và xu hướng cát cứ trong chiến lược


phát triển nên trong khoảng một thập kỷ gần đây, miền Trung đang diễn ra quá trình phi trung tâm hóa. Đang có hiện tượng phát triển dàn hàng ngang nên sức mạnh của các trung tâm đang ngày càng yếu đi và ảnh hưởng, tác động như là một trung tâm của chúng sút giảm dần.

3.3.4.3. Khuyến khích phát triển thị trường xuất khẩu

Phát triển thị trường xuất khẩu theo phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá. Bên cạnh việc duy trì và củng cố các thị trường truyền thống như EU, Nhật Bản, APEC... sớm khôi phục lại thị trường các nước Đông Âu, phát triển các thị trường mới như Mỹ, Canađa, Trung Đông và Đông Nam Á. Tập trung có trọng điểm đối với các thị trường xuất khẩu chủ yếu và thị trường tiềm năng. Chính sách phát triển thị trường phải gắn với việc khuyếch trương, quảng bá sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam với bạn hàng quốc tế.

Cần nắm vững những đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hoá, truyền thống, tập quán, thói quen của từng khu vực thị trường cụ thể và làm tốt công tác phân đoạn thị trường; tìm hiểu đặc điểm tiêu dùng và nhu cầu sản phẩm đối với mỗi đoạn thị trường. Tư vấn cho các doanh nghiệp về quy mô, cơ cấu cũng như xu hướng phát triển của thị trường, môi trường luật pháp và các quy định của nước nhập khẩu về thương mại nhằm trợ giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận thị trường, thực hiện các giao dịch và xuất khẩu sản phẩm.

Tăng cường vai trò của các tổ chức xúc tiến thương mại của Chính phủ, các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng và các tổ chức khác nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong công tác marketing, nghiên cứu thị trường; đồng thời, có chính sách hỗ trợ về thông tin (như miễn phí...) cho doanh nghiệp trong tiếp cận thị trường xuất khẩu. Tăng cường hỗ trợ cho nghiên cứu, phát triển (R&D) đối với các sản phẩm mang tính đặc thù ở từng khu vực thị trường nhằm mở rộng khả năng tiếp cận thị trường đó và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản.

Chính phủ cần đề ra những biện pháp hữu hiệu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước một cách hợp lý và chống buôn lậu, chống kinh doanh hàng giả. Coi trọng

Xem tất cả 270 trang.

Ngày đăng: 10/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí