Hoàn Thiện Pháp Luật Đảm Bảo Sự Giám Sát Và Tuân Thủ Pháp Luật

- Xây dựng và hoàn thiện hơn nữaviệc ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý, sử dụng hoá đơn phục vụ việc đối chiếu chéo hoá đơn nhằm đảm bảo tính kịp thời, chính xác trong kê khai khấu trừ thuế, nộp thuế của các tổ chức, cá nhân trong toàn quốc, khắc phục tình trạng đối chiếu thủ công, hạn chế tới mức thấp nhất sự thất thoát về thuế. Cục thuế TP.HCM đã đi tiên phong trong việc xây dựng và sử dụng trang eb về kiểm tra, đối chiếu hoá đơn báo mất, huỷ, hoá đơn của doanh nghiệp bỏ trốn để hỗ trợ công tác kiểm tra tại website http://www.hcmtax.gov.vn/hcmtax/alert/detail.aspx. Từkinh nghiệm xây dựng, quản lý, sử dụng trang web này tại TP. Hồ Chí Minh, Tổng cục Thuế đã xây dựng

ebsite tra cứu hoá đơn tại địa chỉ http://www.tracuuhoadon.gdt.gov.vn với nội dung cung cấp các thông tin về hóa đơn do cơ quan Thuế và người nộp thuế (NNT) phát hành. Thông tin trên website http://www.tracuuhoadon.gdt.gov.vn được tập hợp từ các báo cáo, thông báo của các đơn vị phát hành hoá đơn (NNT và cơ quan Thuế) theo quy định tại Nghị định số 51/2010/NĐ-CP của Chính phủ và thông tư 153/2010/TT-BTC của Bộ Tài chính. ebsite đã góp phần giúp NNT và các tổ chức, cá nhân khác có thể tra cứu được các thông tin về hoá đơn bao gồm: Đơn vị phát hành hoá đơn; thời gian phát hành, thời gian hoá đơn có giá trị sử dụng và thông tin hoá đơn không còn giá trị sử dụng (là các hoá đơn của NNT ngừng hoạt động, hoá đơn đã báo mất, huỷ, xoá bỏ, hoá đơn không có giá trị sử dụng qua kết luận thanh tra, kiểm tra của cơ quan Thuế). Tuy nhiên, các loại hóa đơn đặc thù (được ngành Thuế có văn bản cho phép phát hành không theo cấu trúc quy định tại thông tư 153/2010/TT-BTC) sẽ không có thông tin trên website này. Trong thời gian tới, Tổng cục thuế cần tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả áp dụng công nghệ thông tin trong việc đối chiếu, kiểm tra hóa đơn, chống tình trạng gian lận hóa đơn GTGT.

- Phối hợp với các Bộ, ngành, các địa phương trong việc thực hiện các biện pháp tăng cường quản lý hoàn thuế GTGT nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp khai man hồ sơ, hoá đơn, chứng từ để lập hồ sơ hoàn thuế rút tiền NSNN.

- Đề xuất Chính phủ qui định về việc xác minh tính hiện thực của doanh nghiệp trước khi cấp Giấy phép kinh doanh (về trụ sở, về khả năng, điều kiện của bộ máy quản lý...) để hạn chế việc thành lập doanh nghiệp “ma” kinh doanh trốn thuế.

- Đề xuất Chính phủ ký các Hiệp định song phương, đa phương với các quốc gia láng giềng có chung biên giới, các nước trong khu vực để tăng cường việc phối hợp, hỗ trợ điều tra, xác minh làm rõ các sai phạm trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá xin hoàn thuế.

3.3.1.4. Về xóa nợ tiền thuế, tiền phạt

Tại chương 2 Luận văn đã phân tích quy định về trường hợp xóa nợ tiền thuế, tiền phạt đối với Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản hiện chưa được rõ ràng, chưa phù hợp với quy định của Luật Phá sản. Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng cần sửa đổi Khoản 1 Điều 65 theo hướng Doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản khi tài sản của Doanh nghiệp không thanh toán được hoặc không thanh toán hết các khoản nợ (bao gồm các khoản nợ không bảo đảm và nợ thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt) thì áp dụng cơ chế xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt mà Doanh nghiệp đó phải nộp [15]. Quy định này không áp dụng cho chủ DN tư nhân và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh. Tác giả đồng ý với quan điểm trên của TS Nguyễn Ngọc Sơn. Việc sửa đổi Luật Quản lý thuế theo hướng này sẽ đảm bảo sự rõ ràng và phù hợp giữa quy định của Luật Quản lý thuế và Luật Phá sản đồng thời hạn chế sự lạm dụng quy định xóa nợ tiền thuế, tiền phạt để hưởng lợi của chủ Doanh nghiệp tư nhân và thành viên hợp danh trong công ty hợp danh.

3.3.2. Hoàn thiện pháp luật đảm bảo sự giám sát và tuân thủ pháp luật

thuế


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

3.3.2.1. Về quản lý thông tin người nộp thuế

Như đã phân tích tại mục 2.2.1, chương 2 Luận văn này, việc thu thập, xây

Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam - 12

dựng hệ thống thông tin người nộp thuế là yêu cầu quan trọng của công tác quản lý thuế hiện đại. Tuy nhiên, pháp luật về quản lý thuế ở nước ta hiện nay vẫn còn

những vấn đề còn tồn tại liên quan đến thông tin người nộp thuế chưa được làm rõ, cần được quy định cụ thể hơn để cơ quan quản lý thuế có được cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ, chính xác về người nộp thuế nhằm kiểm soát được tất cả đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, đảm bảo dự báo nhanh, chính xác số thu NSNN, phát hiện và xử lý kịp thời các vướng mắc, vi phạm pháp luật về thuế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế.

Để đáp ứng được các mục tiêu nêu trên, hệ thống thông tin về người nộp thuế phải đảm bảo các yêu cầu sau:

- Hệ thống thông tin về người nộp thuế phải rõ ràng, đầy đủ, đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế

Điều 69 Luật quản lý thuế quy định hệ thống thông tin người nộp thuế bao gồm những thông tin, tài liệu có liên quan đến nghĩa vụ của người nộp thuế. Hệ thống thông tin về người nộp thuế bao gồm các thông tin cơ bản như Thông tin về đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, thông tin về kế toán như tài khoản của người nộp thuế, thông tin kết quả sản xuất kinh doanh, thông tin về tình hình chấp hành pháp luật thuế, thông tin khác liên quan đến quá trình hoạt động, giao dịch của người nộp thuế, … Có thể thấy, thông tin về người nộp thuế phải được thu thập, khai thác từ nhiều nguồn khác nhau, bằng nhiều hình thức khác nhau: từ người nộp thuế, từ nội bộ cơ quan quản lý thuế, các cơ quan nhà nước và từ các tổ chức, cá nhân có liên quan khác (ví dụ: ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng …). Tuy nhiên, khái niệm và phạm vi hệ thống thông tin người nộp thuế được quy định trong luật một cách chung chung, dẫn đến việc khi cơ quan thuế yêu cầu các bên liên quan cung cấp thông tin thì có thể gặp tình trạng các cơ quan đó không hợp tác vì cho rằng thông tin đó không phải là thông tin có liên quan đến nghĩa vụ của người nộp thuế.

Do vậy, nên có quy định giải thích cụ thể hơn về khái niệm và phạm vi của hệ thống thông tin người nộp thuế nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý và thu thập thông tin của cơ quan thuế.

- Thông tin người nộp thuế phải đảm bảo tính chính xác, trung thực

Những thông tin về người nộp thuế mà cơ quan thuế thu thập được phải đảm bảo độ tin cậy cao, có như vậy việc phân tích, đánh giá, phân loại đối tượng quản lý mới chính xác, đảm bảo việc quản lý đúng và trúng đối tượng cần quản lý chặt chẽ. Để đáp ứng yêu cầu này, pháp luật phải quy định rõ trách nhiệm của người cung cấp thông tin là phải đảm bảo tính chính xác, trung thực của thông tin mà họ cung cấp, đồng thời pháp luật định rõ các biện pháp xử lý đối với trường hợp cung cấp thông tin không trung thực, không chính xác. Ngoài ra, cơquan quản lý thuế khi tiếp nhận các nguồn thông tin cung cấp cũng phải có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá tính trung thực, chính xác của thông tin được cung cấp.

- Thông tin người nộp thuế phải đảm bảo tính kịp thời

Thông tin về người nộp thuế phải được cung cấp đúng thời hạn và phải được cập nhật thường xuyên, phải lưu giữ tập trung tại cơ sở dữ liệu cấp trung ương, được chia sẻ khai thác và sử dụng trên phạm vi toàn quốc nhằm giúp cho các cơ quan chức năng có thể trau dồi, khai thác sử dụng thuận tiện, dễ dàng nhằm phục vụ mục tiêu quản lý. Pháp luật phải quy định rõ thời gian tối đa trong việc cung cấp thông tin đối với từng loại chủ thể, từng hình thức cung cấp thông tin. Để đảm bảo tính nhanh chóng, chính xác, kịp thời, khách quan trong cung cấp, thu thập, trao đổi thông tin, khai thác xử lý, lưu trữ các nguồn thông tin trong điều kiện các hoạt động kinh tế ngày càng mở rộng, phát triển, đối tượng nộp thuế ngày càng tăng, cần xây dựng và hoàn thiện các chuẩn mực của hệ thống thông tin về người nộp thuế, đảm bảo nội dung thông tin đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế hiện đại và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; xây dựng và hoàn thiện các quy định xử lý nghiệp vụ quản lý thuế từ việc xây dựng qui trình cập nhật, xử lý, kiểm tra, kiểm soát và lưu trữ các thông tin về người nộp thuế, xây dựng các quy chế phân quyền, phân cấp khai thác và sử dụng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu.

Trên thực tế hiện nay, có những thông tin trong hệ thống quản lý thuế đã lạc hậu do thiếu cập nhật so với thay đổi của thực tiễn. Luật quản lý thuế đã ghi nhận rất rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc phối hợp

cung cấp, trao đổi thông tin về người nộp thuế để phục vụ cho công tác quản lý thuế nhưng cơ chế phối hợp trao đổi thông tin chưa thường xuyên, kịp thời dẫn đến hiệu quả quản lý thuế chưa được nâng cao.

- Thông tin người nộp thuế phải được phân loại theo những cấp độ khác nhau để có cách thức khai thác quản lý phù hợp

Thông tin về người nộp thuế khá đa dạng, được cung cấp, khai thác từ nhiều nguồn khác nhau để phục vụ cho công tác quản lý thuế. Trong những thông tin về người nộp thuế, có những thông tin thông thường có thể công khai, có những thông tin nhạy cảm chỉ công khai khi cần thiết và có những thông tin mật không được cung cấp. Cần có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn về những thông tinnào được coi là thông tin mật của người nộp thuế đồng thời quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thuế trong giữ bí mật thông tin của người nộp thuế, chỉ rõ trường hợp nào cơ quan quản lý thuế được phép cung cấp cho cơ quan khác khi có yêu cầu nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người nộp thuế. Ngoài ra, pháp luật cũng cần quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc truy tố trong trường hợp để lộ thông tin mật của người nộp thuế một cách có chủ ý. Chỉ có như vậy người nộp thuế cũng như các cơ quan, tổ chức có liên quan mới cung cấp thông tin cho cơ quan quản lý thuế một cách cởi mở, và cơ quan thuế mới có nguồn thông tin đầy đủ, đa chiều phục vụ công tác quản lý.

3.3.2.2. Về xử lý vi phạm pháp luật thuế

Cần sửa đổi, bổ sung quy định về xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế được quy định trong Luật Quản lý thuế và Nghị định số 98/2007/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế có hiệu lực ngày 01/7/2007.

Như đã phân tích tại mục 2.2.3. chương 2 Luận văn này, pháp luật về xử lý vi phạm có sự đối xử không công bằng giữa người nộp thuế chậm nộp tiền thuế với việc cơ quan quản lý thuế chậm giải quyết hoàn thuế. Theo tác giả, đối với cơ quan quản lý thuế chậm ra quyết định hoàn thuế thì ngoài số tiền thuế phải hoàn,

cơ quan quản lý thuế phải trả số tiền lãi bằng với mức mà người nộp thuế chậm nộp tiền thuế bị xử lý chậm nộp thuế.

Một vấn đề nữa cần quan tâm là mức lãi suất được quy định tại Điều 106 Luật quản lý thuế. Mặc dù đã có những sửa đổi được coi là tiến bộ hơn so với quy định của Luật quản lý thuế năm 2006, nhưng quy định trong Luật Quản lý thuế sửa đổi năm 2012 vẫn chưa thực sự phù hợp. Theo tác giả, Luật nên sửa đổi quy định về mức tính lãi chậm nộp thuế tính bằng 1, 5 lần mức lãi suất cho vay bình quân kỳ hạn 06 tháng của các ngân hàng thương mại tại thời điểm nộp chậm. Điều này sẽ đảm bảo mức tính lãi tiền chậm nộp luôn lớn hơn mức lãi suất bình quân mà ngân hàng thương mại cho vay tại thời điểm đó. Quy định này sẽ góp phần ngăn chăn tình trạng nợ đọng, dây dưa nộp thuế, nộp phạt đang có chiều hướng gia tăng ở Việt Nam hiện nay.

3.3.2.3. Về quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính

thuế

Như đã phân tích tại mục 2.2.3 chương 2 của Luận văn, pháp luật về quản lý

nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế còn tồn tại nhiều bất cập, tính khả thi chưa cao… đang gây khó khăn cho quá trình quản lý thuế và cưỡng chế thuế. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nợ và cưỡng chế thuế, ngăn ngừa, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế và các hiện tượng tiêu cực trong quá trình thực hiện pháp luật quản lý nợ, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, cần phải nâng cao tính pháp lý trong các quy định về quản lý nợ thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, tăng cường kỉ cương trong việc chấp hành nghĩa vụ thuế, có những chế tài nghiêm khắc đối với các chủ thể cố tình chây ỳ nộp thuế, nộp phạt ảnh hưởng đến nguồn thu NSNN. Cần sửa đổi bổ sung một số quy định hiện hành để nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong quản lý thuế như sau:

- Bổ sung và quy định chi tiết về các biện pháp thu nợ gián tiếp, bởi vì pháp luật quản lý nợ và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế hiện nay chủ yếu là các biện pháp thu nợ trực tiếp. Biện pháp thu nợ gián tiếp là biên pháp áp

dụng bắt buộc cho đối tượng nộp thuế chây ỳ nộp thuế, nộp phạt bằng cách điều chỉnh các hoạt động kinh tế và xã hội của đối tượng nộp thuế và gây sức ép để họ trả khoản nợ thuế, cụ thể như:

Cung cấp thông tin nợ thuế cho các tổ chức tài chính khi đối tượng nợ thuế có số thuế lớn hoặc nợ thuế kéo dài hoặc nợ thuế phát sinh 3 lần trở lên trong 1 năm… Nếu đối tượng nợ thuế thuộc một trong những tiêu chí trên thì các thông tin như tên, số thuế đang nợ sẽ có thể được cung cấp cho Hiệp hội ngân hàng để các ngân hàng có thể giới hạn khoản vay của người nộp thuế. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc đặt ra các tiêu chí những doanh nghiệp như thế nào được coi là nợ thuế lớn hoặc nợ thuế kéo dài cần phải xem xét một cách cẩn thận.

Thông báo tên của các đối tượng nộp thuế chây ỳ thuế lớn trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Quy định rõ điều kiện bắt buộc đối với các đối tượng được hưởng ưu đãi của Nhà nước về thuế, về tín dụng và ưu đãi khác phải là đối tượng không có nợ thuế.

- Bổ sung các quy định về việc áp dụng tuần tự các biện pháp cưỡng chế mà Luật quy định.

- Quy định rõ dấu hiệu để xác định người nợ tiền thuế, tiền phạt có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn. Bên cạnh đó cũng cần phải quy định đầy đủ hơn về cơ sở pháp lý cho một số biện pháp cưỡng chế để đảm bảo hiệu quả áp dụng trên thực tế, đặc biệt quy định về thu tiền, tài sản của đối tượng nộp thuế do người thứ ba nắm giữ và quy định về thu hồi mã số thuế.

- Cần luật hóa để bổ sung thêm 04 trường hợp được gia hạn nộp thuế đã được quy định trong Nghị định 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 vào Điều 49 Luật Quản lý thuế để bảo đảm tính bao quát, cụ thể, rõ ràng của Luật, bao gồm các trường hợp sau:

Di chuyển địa điểm kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà doanh nghiệp phải ngừng hoạt động và làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, kinh doanh;

Do chính sách của Nhà nước thay đổi làm ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế;

Hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản có số tiền thuế nợ do nguyên nhân chưa được thanh toán vốn đầu tư từ NSNN;

Thực hiện dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, kinh doanh nhà đất được Nhà nước giao đất nhưng chưa giải phóng được mặt bằng, chưa bàn giao đất dẫn đến không có nguồn nộp NSNN.

Ngoài việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý thuế cần hoàn thiện các quy định của các bộ phận pháp luật khác có liên quan nhằm đảm bảo tính khoa học, tính hệ thống và tính khả thi, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế. Đồng thời cần tăng cường bổ sung lực lượng, tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ công chức quản lý và cưỡng chế thuế, đẩy mạnh hơn nữa công tác hướng dẫn, tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người nộp thuế đối với Nhà nước, …

3.4. Cơ chế đảm bảo thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

3.4.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý thuế

Phần lớn các quy định của pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý thuế không được quy định trong luật quản lý thuế mà quy định ở những văn bản dưới luật do Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ tài chính ban hành. Đây có thể coi là một nhược điểm của pháp luật quản lý thuế ở nước ta. Theo tác giả, Luật quản lý thuế cần bổ sung một số quy định có tính nguyên tắc trong tổ chức bộ máy quản lý thuế, tạo cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền quy định chi tiết và hướng dẫn

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 25/12/2022