Căn Cứ Để Xác Định Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Quản Lý Thuế Giá Trị Gia Tăng Ở Việt Nam

hợp thực hiện không nghiêm các quyết định của Thủ tướng phê chuẩn việc đơn giản hóa thủ tục hành chính tại các Bộ, ngành, cá biệt có trường hợp còn phát sinh thủ tục mới trong quá trình triển khai. Đây là những yếu tố có thể sẽ cản trở tiến độ cải cách thủ tục hành chính nói chung, cải cách trong lĩnh vực Thuế nói riêng.

Hiện nay, Chi phí cho tổ chức thu thuế ở Việt Nam hiện chiếm khoảng mức 1, 25% tổng thu ngân sách, ở mức cao so với bình quân chung thế giới là 1.04%, của Singapore là 0, 83%, Thái Lan là 0, 6%. [8]

Cùng với những thay đổi phát triển của kinh tế xã hội, đã làm nảy sinh một số vấn đề mới trong quản lý thuế nhưng pháp luật quản lý thuế hiện hành còn thiếu các quy định điều chỉnh hoặc quy định còn chưa cụ thể, chưa phù hợp, chưa theo kịp với thực tế cuộc sống. Bên cạnh đó, Việt Nam đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới, quá trình quốc tế hóa và tự do thương mại, đầu tư sẽ tác động mạnh đến nền kinh tế nước ta. Điều này đòi hỏi công tác quản lý thuế của Việt Nam phải được nâng tầm về thẩm quyền, kỹ năng, biện pháp quản lý để đáp ứng và thích nghi với các thông lệ, thực tiễn của kinh doanh và quản lý quốc tế.‌

3.2. Căn cứ để xác định giải pháp hoàn thiện pháp luật Quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Một số căn cứ để xác định giải pháp hoàn thiện pháp luật Quản lý thuế như:

3.2.1. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

Pháp luật nói chung và pháp luật quản lý thuế nói riêng là sự thể chế hóa, cụ thể hóa, và là công cụ đưa các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vào cuộc sống. Bởi vậy, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng là kim chỉ nam cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế GTGT nói riêng. Các quan điểm về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được ghi trong nhiều các văn kiện của Đảng. Đặc biệt được xác định rõ trong Nghị quyết số 48-NQ/T ngày 24/5/2005

về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống Pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020.

Trong lĩnh vực Tài chính công, Nghị quyết số 48-NQ/T chỉ rõ: “Hoàn thiện pháp luật về tài chính công, xác định rõ nguồn thu và cơ cấu chi của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, thống nhất chế độ chi tiêu… Tiếp tục cải cách pháp luật về thuế theo hướng ổn định hơn, đơn giản hơn, mức thuế phù hợp, có tính đến các định chế kinh tế quốc tế và khu vực cũng như các điều ước quốc tế khác có liên quan.”

Nghị quyết cũng chỉ rõ yêu cầu “Đơn giản hoá và công khai, minh bạch các thủ tục hành chính, đặc biệt là các thủ tục liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp.”

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, bảo đảm mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ, đồng thời khắc phục tình trạng công tác thanh tra, kiểm tra gây khó khăn, phiền hà cho hoạt động của các cơ quan hành chính và doanh nghiệp…

Bảo đảm mọi quyết định, hành vi hành chính trái pháp luật đều được phát hiện và và có thể bị khởi kiện trước toà án đổi mới thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và thủ tục giải quyết các vụ án hành chính theo hướng công khai, đơn giản, thuận lợi cho dân, đồng thời bảo đảm tính thông suốt, hiệu quả của quản lý hành chính.

Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam - 11

Trong việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, nghị quyết khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về tổ chức, cán bộ và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính nhà nước. … Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cho từng loại cán bộ, công chức và hệ thống tiêu chuẩn đánh giá, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, công chức.”

Để đẩy mạnh công cuộc hội nhập sâu rộng vào đời sống Quốc tế, nhiệm vụ đặt ra là: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng kịp thời yêu

cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo lập môi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng phù hợp với nguyên tắc của

TO và các cam kết quốc tế khác.”

Những quan điểm quan trọng trên đây của Đảng là căn cứ cơ bản để đánh giá thực trạng và định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về Quản lý thuế ở nước ta.

3.2.2. Sự chi phối của nền Kinh tế thị trường Việt Nam

Hoàn thiện pháp luật quản lý thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế GTGT nói riêng luôn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, khi định ra các giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật quản lý thuế phải dựa vào những đặc điểm hình thành, phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, chỉ có như vậy pháp luật quản lý thuế mới đảm bảo được tính phù hợp, tính khả thi trong thực tiễn.

Ở mức độ khái quát, có thể nhận thấy nền kinh tế thị trường ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, phát triển trên cơ sở nền kinh tế sản xuất nhỏ, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, thương mại, công nghiệp chưa thực sự phát triển[5, 157]. Đại đa số các chủ thể kinh doanh ở Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ cá nhân kinh doanh. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các đối tượng này chủ yếu là mang tính tự phát, không có chiến lược đầu tư kinh doanh dài hạn, dễ thay đổi chiến lược kinh doanh. Chủ thể kinh doanh ở nước ta hiện nay nhiều về số lượng, đa dạng về loại hình, phần nhiều các DN vừa và nhỏ, đối tượng này thường chấp hành chế độ hóa đơn chứng từ, hạch toán và lưu giữ sổ sách kế toán không đầy đủ, sự hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng còn nhiều hạn chế. Đặc điểm này gây ra nhiều khó khăn cho việc quản lý thuế ở nước ta, đòi hỏi việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý thuế GTGT phải tính đến thực tế khách quan này. Theo kinh nghiệm quản lý thuế của một số nước và ở nước ta trong thời gian vừa qua, đặc điểm hoạt động của người nộp thuế là yếu tố tác động đến hành vi tuân thủ pháp luật thuế. [4, 124]

Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp dân doanh, hộ, cá nhân kinh doanh, đối tượng này thường ngại hoặc không muốn thực hiện các thủ tục hành chính thuế. Do họ chấp hành chưa tốt chế độ kế toán, hóa đơn chứng từ; do chi phí tuân thủ thuế quá cao so với lợi nhuận họ thu được từ kinh doanh. Có đối tượng muốn tuân thủ đúng pháp luật thuế nhưng không có khả năng làm như vậy vì họ không nhận thức được hoặc không hiểu hết phạm vi nghĩa vụ thuế và quy trình tuân thủ nên hay mắc lỗi trong kê khai, nộp thuế làm tăng chi phí tuân thủ. Trong các chủ thể kinh doanh mới thành lập, hoạt động thậm chí có cả đối tượng chưa biết về thông tin và kiến thức cơ bản về thuế, hoạt động kế toán. Nhóm đối tượng nộp thuế này thường kê khai thuế thấp hơn so với thực tế hoặc không thực hiện hoặc thực hiện không tốt các thủ tục hành chính thuế. Bởi vậy, những biện pháp quản lý mang tính chủ quan như ấn định thuế hoặc nộp thuế khoán vẫn còn cần được duy trì.

Thứ hai, nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển lên từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ

Đặc điểm này cần quan tâm khi định ra những giải pháp hoàn thiện luật quản lý thuế do tàn dư của cơ chế quản lý kinh tế cũ đã ăn sâu vào tư duy tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, đó là bộ máy hành chính cồng kềnh, nặng về thủ tục hành chính rườm rà, phương pháp quản lý chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, giải quyết các công việc quản lý bằng cơ chế “xin cho”, bệnh bảo thủ, trì trệ, thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong đội ngũ cán bộ công chức nhà nước vẫn còn tồn tại. Bởi vậy, việc chuyển đổi cơ chế quản lý thuế từ nền hành cính “hành dân” sang nền hành chính “phục vụ dân” còn nhiều vấn đề pháp lý cần phải tính đến đổi mới, đặc biệt là bộ phận pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý thuế ở nước ta khi chuyển sang quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp.

Thứ ba, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đặc điểm này đòi hỏi khi đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế GTGT cần phải xử lý nhiều với mối quan hệ kinh tế xã hội phức tạp, không phải đơn thuần là giải quyết các vấn đề kinh tế, tài chính mà bao giờ cũng phải

gắn với những thay đổi lớn căn bản về xã hội, phải bảo đảm thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội. Chính điều đó làm cho pháp luật về nội dung các sắc thuế trở nên phức tạp.

Thứ tư, nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang ở giai đoạn hình thành, phát triển nhưng chịu sự tác động mạnh mẽ của xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và xu hướng hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế.

Đặc điểm này đặt ra nhiều vấn đề cần được quan tâm trong hoàn thiện pháp luật quản lý thuế GTGT ở nước ta hiện nay. Thể chế kinh tế thị trường ở nước ta đang trong quá trình xây dựng hoàn thiện, không tránh khỏi tình trạng pháp luật thiếu tính đồng bộ, thiếu thống nhất, thiếu tính khả thi và chậm đi vào cuộc sống. Thiết chế đảm bảo thi hành pháp luật còn thiếu và yếu, trong khi đó quá trình hội nhập KTQT diễn ra nhanh chóng và sâu rộng. Vấn đề đặt ra là phải đảm bảo thể chế kinh tế thị trường ở nước ta vừa phải phù hợp với điều kiện thực tiễn vừa phải đáp ứng yêu cầu hội nhập. Việc hoàn thiện pháp luật quản lý thuế GTGT trong điều kiện như vậy sẽ gặp phải không ít khó khăn. Tuy nhiên việc mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng cũng giúp cho chúng ta có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý thuế của những nước đi trước.

3.2.3. Kết quả nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm xây dựng, thực hiện pháp luật quản lý thuế ở nước ta và một số nước trên thế giới

Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới, khoa học pháp lý nước ta đã có bước phát triển và càng ngày càng có những đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Trong lĩnh vực thuế GTGT, từ khi Nhà nước thực hiện công cuộc cải cách hệ thống thuế, việc nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện hệ thống thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng trong điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở nước ta đã được quan tâm rất lớn. Những kết quả nghiên cứu khoa học pháp lý và kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuế GTGT ở nước ta trong hơn hai mươi năm qua cho phép chúng ta nhìn nhận một cách khách quan thực trạng hệ thống pháp luật thuế GTGT hiện hành để đề ra

những giải pháp đúng đắn, thiết thực cho việc hoàn thiện pháp luật thuế GTGT ở nước ta trong thời gian tới.

Ngày nay, trong điều kiện hội nhập kinh tế, quốc tế sâu rộng thì việc tiếp thu những giá trị, những yếu tố hợp lý của tư tưởng, học thuyết pháp lý tiến bộ của nhân loại, những kinh nghiệm, những bài học quý báu trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế nói riêng ở nhiều quốc gia để vận dụng thích hợp vào quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của quốc gia mình như là nhu cầu khách quan mà nhiều quốc gia đã thực hiện. Tuy nhiên, việc tiếp thu những giá trị, những yếu tố hợp lý của nền văn minh pháp lý nhân loại để vận dụng trong quá trình hoàn thiện pháp luật quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng ở Việt Nam cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với điều kiện kinh tế chính trị, xã hội cụ thể của Việt Nam. Việc xem xét, nghiên cứu hệ thống pháp luật thuế một số quốc gia phát triển, đang phát triển, chậm phát triển, quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi là cần thiết nhưng những kết quả này chỉ mang tính tham khảo khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật thuế của Việt Nam.[17, 96]‌

3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

3.3.1. Hoàn thiện các quy định về thủ tục hành chính thuế

3.3.1.1. Về khai thuế giá trị gia tăng

Quy định tại khoản 8 điều 10 Thông tư 28/2011/TT-BTC hướng dẫn đại lý bán đúng giá của bên giao đại lý, hưởng hoa hồng của dịch vụ bưu chính, viễn thông, đại lý bán về sổ số, vé may bay, ôtô, tàu hoả tàu thuỷ, đại lý vận tải quốc tế, đại lý dịch vụ ngành hàng không, hàng hải mà được áp dụng thuế suất thuế GTGT0%, đại lý bảo hiểm thì không phải khai thuế GTGT đối với doanh thu hàng hoá dịch vụ nhận bán đại lý và doanh thu hoa hồng được hưởng.Quy định này thiếu tính thống nhất và đồng bộ với các quy định của Luật quản lý thuế và Luật thuế GTGT. Do vậy, tác giả kiến nghị bỏ quy định về doanh thu hoa hồng được hưởng ở phần hướng dẫn tại Khoản 8 Điều 10 Thông tư số 28/2011/TT-BTC.

3.3.1.2. Về Nộp thuế giá trị gia tăng

Cần sửa đổi, bổ sung quy định về tỷ giá tại Điều 43, Luật Quản lý thuế.Như đã phân tích tại Mục 2.1.3. Chương 2 Luận văn, pháp luật chưa có sự thống nhất trong quy định về tỷ giá giữa các văn bản pháp luật về quản lý thuế, Luật thuế GTGT và văn bản pháp luật về tài chính khác. Để đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, cần sửa quy định về tỷ giá quy đổi ngoại tệ khi kê khai, tính thuế, thống nhất hạch toán theo một loại tỷ giá. Luật Quản lý thuế sửa đổi, bổ sung năm 2012 chưa đề cập đến vấn đề này.

3.3.1.3. Về hoàn thuế giá trị gia tăng

Để chống gian lận trong hoàn thuế GTGT, phải thực hiện nhiều biện pháp mang tính đồng bộ. Việc đầu tiên cần làm là nâng cao ý thức của người bán hàng, người mua hàng trong quản lý, sử dụng hoá đơn, tăng cường công tác tuyên truyền, giải thích về chính sách thuế, về các qui định trong quản lý, sử dụng hoá đơn.

Ngoài ra, cần sửa đổi bổ sung một số điểm chưa hợp lý trong cơ chế quản lý có liên quan đến hoá đơn, cụ thể như sau:

-Quy định các chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các hành vi in ấn, mua bán hoá đơn giả (hoá đơn không hợp pháp), hành vi lập hồ sơ kê khai gian lận để làm tăng thuế GTGT được khấu trừ hoặc tăng thuế GTGT được hoàn. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự có hiệu lực ngày 01/01/2010 bổ sung Điều 164a quy định về “Tội in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp NSNN” như sau: Người nào in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp NSNN với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự chưa có quy định về hành vi lập hồ sơ kê khai gian lận để làm tăng thuế GTGT được khấu trừ hoặc tăng thuế GTGT được

hoàn là một loại tội phạm. Về bản chất, đây là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của Nhà nước, phải bị xử lý. Do vậy, nên bổ sung vào Bộ luật hình sự loại tội phạm về hành vi lập hồ sơ kê khai gian lận để làm tăng thuế GTGT được khấu trừ hoặc tăng thuế GTGT được hoàn. Đề xuất Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi Pháp lệnh điều tra vụ án hình sự, bổ sung chức năng điều tra, khởi tố các vụ án hình sự trong lĩnh vực thuế để cơ quan thuế chủ động trong công tác quản lý thuế, đẩy mạnh kỷ cương, ý thức chấp hành pháp luật thuế của các đối tượng nộp thuế.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thuế, phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm hoàn thuế GTGT: tổ chức lại bộ máy quản lý thuế, qui định rõ trách nhiệm cán bộ thuế trong việc xử lý hoàn thuế, tăng cường cán bộ có trình độ nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức tốt làm công tác thanh tra, kiểm tra hoàn thuế, tổ chức tập huấn thanh tra sau hoàn thuế.

- Thực hiện đóng dấu tên và mã số thuế của doanh nghiệp tại cơ quan thuế đem về sử dụng, tăng cường tổ chức kiểm tra, đối chiếu chéo hoá đơn giữa doanh nghiệp mua và doanh nghiệp bán: phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp mua bán hoá đơn, lập hoá đơn khống, khuyến khích các cơ sở SXKD tự in hoá đơn để sử dụng.

-Đề xuất Chính phủ thành lập cơ quan cưỡng chế thuế thuộc Tổng cục thuế.

Một số biện pháp khác cũng cần được thực hiện nhằm hạn chế tình trạng gian lận hoàn thuế GTGT:

- Tăng cường lực lượng làm công tác thanh tra, kiểm tra về thuế. Trước mắt tập trung kiểm tra các doanh nghiệp có số thuế đề nghị khấu trừ hoặc hoàn thuế lớn hoặc có biểu hiện gian lận trong kê khai thuế, có vi phạm trong việc quản lý, sử dụng hoá đơn. Kiến nghị Nhà nước tăng cường kiểm tra việc sử dụng NSNN trong khu vực hành chính sự nghiệp để ngăn chặn, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm qui định về sử dụng hoá đơn trong thanh toán, quyết toán tài chính.

-Phối hợp với Cơ quan công an phát hiện các tổ chức, cá nhân in và lưu hành hoá đơn giả, đề nghị truy tố trước pháp luật.

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 25/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí