bên hữu quan cung cấp thông tin có thể gặp phản ứng vì cho rằng những thông tin yêu cầu cung cấp không liên quan đến nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
Hai là, theo quy định về Xây dựng, thu thập, xử lý và quản lý hệ thống thông tin về người nộp thuế tại Điều 70 Luật quản lý thuế, cơ quan quản lý thuế áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để thu thập, xử lý thông tin theo mục tiêu và yêu cầu của từng giai đoạn. Quy định này chưa bao hàm được việc thu thập thông tin do cơ quan thuế của các nước cung cấp theo Hiệp định hoặc điều ước quốc tế ký với Việt Nam.Điều 70 Luật quản lý thuế và các Điều 32, 33, 34, 35 của Nghịđịnh 85/2007/NĐ-CP cũng chưa quy định cơ quan thuế được sử dụng thông tin để thực hiện những công việc gì trong quản lý thuế.
Xu hướng hội nhập và mở cửa nền kinh tế đã làm cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đa dạng hoá và mở rộng về phạm vi, nên bên cạnh những kết quả tích cực (là cơ bản) đã phát sinh những mặt tiêu cực, hạn chế cần có biện pháp phòng, chống hiệu quả (như các biện pháp dàn xếp tránh thuế, giả mạo doanh nghiệp, đối tác, lừa đảo trong kinh doanh...). Do đó, cơ quan thuế các nước hiện đang tăng cường công tác trao đổi thông tin trên cơ sở các điều ước quốc tế để cùng đấu tranh chống gian lận thuế. Thực tế hiện nay, cơ quan thuế Việt Nam vẫn nhận được các thông tin từ phía nước ngoài nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp luật cho phép sử dụng các thông tin này trong việc xử lý các vấn đề về thuế.
Giải quyết thực tế này, Luật sửa đổi, bổ sung một số vấn đề của Luật Quản lý thuếsửa đổi Khoản 2 Điều 70 Luật Quản lý thuế theo hướng bổ sung nội dung cho phép cơ quan quản lý thuế được thu thập, trao đổi và sử dụng các thông tin do các đối tác nước ngoài cung cấp trên cơ sở các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Việc bổ sung, sửa đổi như đề xuất là phù hợp thông lệ quốc tế, tăng cường công tác trao đổi thông tin hai chiều trên cơ sở các điều ước quốc tế để cùng đấu tranh chống gian lận thuế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế.
Ba là, về bảo mật thông tin người nộp thuế, pháp luật cũng chưa quy định rõ ràng về thông tin của người nộp thuế, có thể hiểu là mọi thông tin của người nộp thuế đều phải giữ bí mật, hay chỉ một số thông tin cần giữ bí mật. Nếu chỉ một số thông tin cần giữ bí mật thì đây là những thông tin cụ thể nào?
Bốn là, giá trị pháp lý của các thông tin mà cơ quan quản lý thuế thu thập được từ các chủ thể có liên quan chưa được quy định cụ thể. Các thông tin này chỉ có giá trị tham khảo hay dùng để làm bằng chứng hiển nhiên. Đây là một vấn đề ảnh hưởng đến quyền lợi trực tiếp của người nộp thuế, nhất là trong trường hợp những thông tin mà người nộp thuế cung cấp và những thông tin mà cơ quan quản lý thuế thu thập được từ các chủ thể có liên quan trái ngược nhau.
Liên quan đến việc quản lý người nộp thuế, Luật quản lý thuế 2006 chưa có quy định chung về nguyên tắc quản lý rủi ro để phân loại người nộp thuế nhằm đưa ra biện pháp quản lý chặt chẽ đối với người nộp thuế có rủi ro cao và có biện pháp ưu tiên đối với doanh nghiệp tuân thủ tốt pháp luật thuế. Những năm gần đây, trên cơ sở cải cách quản lý thuế và hải quan, thực hiện cơ chế quản lý rủi ro, ngành thuế, ngành hải quan đã áp dụng thí điểm việc phân loại người nộp thuế để có biện pháp quản lý phù hợp, những người nộp thuế thực hiện ở những lĩnh vực, địa bàn có độ rủi ro thấp, có lịch sử tuân thủ pháp luật tốt được ưu tiên trong thực hiện thủ tục hành chính thuế.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế bổ sung thêm hai khoản (khoản 4, 5) vào Điều 4 - Nguyên tắc quản lý thuế để quy định nguyên tắc áp dụng rủi ro trong quản lý thuế và nguyên tắc quản lý thuế đối với người nộp thuế đáp ứng các tiêu chí xếp hạng ưu tiên đồng thời bổ sung thêm khoản 10 vào Điều 5. Theo đó, việc áp dụng cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế bao gồm: thu thập thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế; xây dựng các bộ tiêu chí quản lý thuế; đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế; đề xuất, áp dụng các biện pháp quản lý thuế. Cơ quan quản lý thuế quản lý, ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ để đánh giá rủi ro về thuế, mức độ tuân thủ pháp luật
của người nộp thuế, lựa chọn đối tượng kiểm tra, thanh tra về thuế và hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ khác trong quản lý thuế.
Quy định trên cũng phù hợp với chuẩn mực quốc tế, cụ thể là Chuẩn mực
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam - 6
- Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam - 7
- Thực Trạng Pháp Luật Về Giám Sát Và Đảm Bảo Sự Tuân Thủ Pháp Luật Quản Lý Thuế
- Các Quy Định Về Khiếu Nại, Tố Cáo Và Giải Quyết Các Tranh Chấp Phát Sinh Trong Quản Lý Thuế Gtgt
- Căn Cứ Để Xác Định Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Quản Lý Thuế Giá Trị Gia Tăng Ở Việt Nam
- Hoàn Thiện Pháp Luật Đảm Bảo Sự Giám Sát Và Tuân Thủ Pháp Luật
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
3.32 Công ước Kyoto cũng khuyến nghị cơ quan hải quan cần có biện pháp ưu tiên khi thực hiện thủ tục hải quan đối với các doanh nghiệp có truyền thống tuân thủ pháp luật và hệ thống sổ sách kinh doanh tốt. Kết quả thực hiện thí điểm về nguyên tắc quản lý rủi ro cũng được người nộp thuế đánh giá cao. Quy định mới được kỳ vọng và đánh giá là sẽ tạo thuận lợi cho người nộp thuế chấp hành tốt pháp luật về thuế, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho công tác quản lý của cơ quan thuế và hải quan trong việc quản lý người nộp thuế.
2.2.2. Các quy định về kiểm tra, thanh tra thuế GTGT
Nhóm quy định pháp luật về kiểm tra, thanh tra thuế được quy định tại Chương X Luật Quản lý thuế 2006 gồm 4 mục, từ Điều 75 đến Điều 91. Các quy định của Luật Quản lý thuế đã làm rõ một số nội dung sau:
Một là, quy định những nguyên tắc cơ bản của việc kiểm tra, thanh tra thuế như sau:
- Thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
- Không cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là người nộp thuế.
- Tuân thủ quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Như vậy, việc kiểm tra, thanh tra thuế thực hiện trên nguyên tắc phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, từ đó đánh giá, lựa chọn và xác định đối tượng có khả năng vi phạm pháp luật thuế để kiểm tra, thanh tra chứ không kiểm tra, thanh tra một cách dàn trải.
Hai là, Pháp luật về quản lý thuế cũng đã có sự phân biệt giữa kiểm tra và thanh tra thuế, quy định tại các điều 77, 78 và 81 Luật quản lý thuế. Theo đó, kiểm
tra thuế là hoạt động thường xuyên mang tính chất nghiệp vụ của cơ quan thuế nhằm mục đích đánh giá tính đầy đủ, chính xác của thông tin, chứng từ trong hồ sơ thuế, sự tuân thủ pháp luật của người nộp thuế. Việc kiểm tra thuế được diễn ra chủ yếu tại trụ sở cơ quan quản lý thuế. Trong trường hợp người nộp thuế không tự giác sửa đổi, bổ sung những sai sót mà cơ quan quản lý thuế đã yêu cầu thì cơ quan thuế sẽ tiến hành kiểm tra tại trụ sở chính của người nộp thuế. Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra đối tượng thuế ở mức độ cao hơn và toàn diện hơn. Thanh tra thuế là hoạt động định kỳ đối với các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng hoặc khi doanh nghiệp có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế, hoặc trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo hay theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp, Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Ba là, quy định hình thức của kiểm tra thuế. Kiểm tra thuế bao gồm kiểm tra tại trụ sở của cơ quan quản lý thuế và kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế.
- Kiểm tra hồ sơ thuế tại trụ sở của cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế thực hiện việc đối chiếu, so sánh nội dung trong hồ sơ thuế với các thông tin, tài liệu có liên quan, các quy định của pháp luật về thuế, kết quả kiểm tra thực tế hàng hoá trong trường hợp cần thiết đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Sau khi kiểm tra, công chức thuế xác nhận kết quả kiểm tra thuế vào hồ sơ thuế. Trong trường hợp hồ sơ chưa đủ tài liệu hoặc khai chưa đủ các chỉ tiêu thì cơ quan thuế thông báo cho người nộp thuế biết để hoàn chỉnh hồ sơ. Trường hợp qua kiểm tra, đối chiếu, so sánh, phân tích xét thấy có nội dung khai chưa đúng, số liệu không chính xác hoặc có những nội dung cần xác minh liên quan đến số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được giảm, được miễn, được hoàn, …cơ quan thuế ra thông báo bằng văn bản đề nghị người nộp thuế giải trình hoặc bổ sung thông tin tài liệu. Trường hợp người nộp thuế đã giải trình và bổ sung thông tin, tài liệu chứng minh số thuế đã khai là đúng thì hồ sơ thuế được chấp nhận; nếu sau khi giải trình và bổ sung hồ sơ mà không đủ căn cứ chứng minh số thuế đã khai là đúng thì cơ quan quản lý thuế yêu cầu người nộp thuế khai bổ sung. Nếu hết thời hạn theo thông báo của cơ quan quản lý thuế mà người nộp thuế không giải trình, bổ sung thông
tin, tài liệu hoặc không khai bổ sung hồ sơ thuế; hoặc giải trình, khai bổ sung hồ sơ thuế nhưng không chứng minh được số thuế đã khai là đúng thì thủ trưởng cơ quan quản lý thuế quản lý trực tiếp ấn định số tiền thuế phải nộp hoặc ra quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế.
- Kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế được thực hiện trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 78: người nộp thuế không giải trình, bổ sung thông tin, tài liệu hoặc không khai bổ sung hồ sơ thuế; hoặc giải trình, khai bổ sung hồ sơ thuế nhưng không chứng minh được số thuế đã khai là đúng; hoặc cơ quan quản lý thuế không đủ căn cứ để ấn định số thuế phải nộp và các trường hợp kiểm tra trước khi hoàn thuế theo quy định. Điều 79, 80 Luật Quản lý thuế cũng quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế trong kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế cũng như nhiệm vụ, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế ra quyết định kiểm tra thuế và công chức quản lý thuế trong việc kiểm tra thuế. Về thủ tục, việc kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế được thực hiện khi có quyết định kiểm tra thuế tại trụ sở do Thủ trưởng cơ quan quản lý thuế ban hành. Luật Quản lý thuế và các văn bản hương dẫn thi hành quy định khá chi tiết, rõ ràng về trình tự, thủ tục thời hạn kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế, cách thức lập và nội dung biên bản kiểm tra thuế và việc xử lý kết quả kiểm tra thuế.
Bốn là, các nội dung về thanh tra thuế được quy định tại mục 3 chương X Luật Quản lý thuế 2006.
Điều 81 quy định thanh tra thuế được thực hiện trong các trường hợp sau: Thanh tra định kỳ một năm không quá một lần đối với doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, thanh tra khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về thuế và thanh tra để giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý thuế các cấp hoặc Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Thứ nhất, Điều 77 Luật Quản lý thuế về kiểm tra thuế tại trụ sở cơ quan quản lý thuế có quy định gửi Quyết định kiểm tra thuế cho người nộp thuế trong thời hạn ba ngày làm việc. Điều này là không cần thiết vì việc kiểm tra tại cơ quan
thuế là thường xuyên và không cần thông báo cho người nộp thuế. Luật sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế đã bỏ quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 77 nêu trên.
Thứ hai, Điều 78 Luật Quản lý thuế vềkiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế quy định khi kiểm tra tại trụ sở của người nộp thuế thì cơ quan thuế phải ra quyết định, nhưng lại không có quy định về thời hạn gửi quyết định kiểm tra.Khắc phục điều này, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 78 như sau: Quyết định kiểm tra thuế phải được gửi cho người nộp thuế trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày ký. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định kiểm tra thuế mà người nộp thuế chứng minh được số thuế đã khai là đúng hoặc nộp đủ số tiền thuế phải nộp thì cơ quan quản lý thuế bãi bỏ quyết định kiểm tra thuế.
Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế bổ sung Điểm c Khoản 1 Điều 78 quy định nguyên tắc kiểm tra thuế theo tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế qua phân tích, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế; kiểm tra đối với trường hợp có phát sinh dấu hiệu vi phạm pháp luật và các trường hợp được lựa chọn theo kế hoạch, chuyên đề kiểm tra do thủ trưởng cơ quan quản lý thuế cấp trên quyết định. Nguyên tắc thực hiện kiểm tra thuế dựa theo tiêu chí đánh giá rủi ro về thuế qua phân tích, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế; lựa chọn theo ngành nghề, quy mô, địa bàn để kiểm tra; hoặc đối với các trường hợp trong thực tế phát sinh dấu hiệu vi phạm pháp luật như kiểm tra sử dụng (mua - bán) hoá đơn, kiểm tra chống gian lận đầu cơ về giá cả hoặc trường hợp doanh nghiệp có dấu hiệu bỏ trốn, tẩu tán kho hàng, tài sản…
Đối với các trường hợp trên, cơ quan quản lý thuế thực hiện kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế không quá một lần trong một năm. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm để ngành thuế triển khai các chương trình kiểm tra sự tuân thủ hàng năm khi phân tích, đánh giá chung về hành vi tuân thủ pháp luật của từng nhóm người nộp thuế, phòng chống hiện tượng cơ quan thuế chủ quan, thiếu căn cứ trong việc xác định danh sách đối tượng cần được kiểm tra, thanh tra thuế;
đồng thời đảm bảo kiểm soát được mục đích kiểm tra, tránh lạm dụng, tiêu cực hoặc gây phiền hà người nộp thuế.
Kinh nghiệm các nước trên thế giới và khuyến nghị của các tổ chức quốc tế như OECD, IMF, B cho thấy, để giám sát sự tuân thủ pháp luật của người nộp thuế một cách khách quan, đảm bảo việc kiểm tra đúng đối tượng, nội dung, tránh gây phiền hà nhũng nhiễu doanh nghiệp thì cơ quan thuế cần có các chương trình kiểm tra tuân thủ theo tiêu thức đánh giá rủi ro và theo chuyên đề, kế hoạch hàng năm.Các sửa đổi, bổ sung tại Điều 78 phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tình hình quản lý thực tế, giúp cơ quan thuế áp dụng phương pháp quản lý phù hợp với phân loại người nộp thuế, kịp thời phát hiện và có những biện pháp xử lý phù hợp, tăng cường hiệu lực công tác kiểm tra thuế. Qua đó đảm bảo sự hợp lý, chặt chẽ của thủ tục ra quyết định và gửi quyết định kiểm tra; đảm bảo công bằng, minh bạch trong thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế, giảm phiền hà cho người nộp thuế.
2.2.3. Các quy định về xử lý vi phạm và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế
2.2.3.1. Về xử lý phạm thuế giá trị gia tăng
Luật quản lý thuế 2006 đã quy định khá rõ về các nội dung về xử phạt vi phạm pháp luật thuế nói chung và xử lý vi phạm pháp luật thuế GTGT nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, pháp luật xử lý vi phạm pháp luật thuế GTGT còn có những hạn chế cần xem xét.
Thứ nhất, chưa đảm bảo tính công bằng của pháp luật giữa các chủ thể người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế.
Điều 60, Điều 103, 106 Luật Quản lý thuế; Điều 2, Điều 12, Điều 22, 23, 24 Nghị định số 98/2007/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế chưa đảm bảo về tính công bằng giữa các chủ thể.Khoản 4 Điều 60 Luật quản lý thuế quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế như sau: Quá thời hạn quy định, nếu cơ quan quản lý thuế chậm ra quyết định
hoàn thuế thì ngoài số tiền thuế phải hoàn, cơ quan thuế phải trả tiền lãi theo quy định của Chính phủ. Trong khi đó theo quy định tại điều 103 của Luật Quản lý thuế thì chậm nộp tiền thuế thuộc hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Như vậy, cùng một bản chất sự việc (chậm nộp thuế hoặc chậm trả tiền hoàn) Luật đã xử sự không công bằng giữa hai chủ thể là cơ quan quản lý thuế và người nộp thuế.
Thứ hai, về chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về thuế.
Tại các điều 106 đến 108 Luật Quản lý thuế quy định mức xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế là 0, 05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp. Mức xử phạt đối với hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn là 10% số tiền thuế khai thiếu hoặc số tiền thuế được hoàn cao hơn và phạt chậm nộp tiền thuế 0, 05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp. Mức xử phạt đối với hành vi trốn thuế, gian lận thuế là từ 1 đến 3 lần số tiền thuế trốn. Về cơ bản, các chế tài xử phạt là hợp lý, tuy nhiên chưa có sự phân biệt chi tiết về cấp độ vi phạm với biện pháp khuyến khích người nộp thuế tự khắc phục hậu quả, điều chỉnh sai sót.Từ thực tế thực hiện các chế tài về xử phạt, cho thấy có một số vấn đề vướng mắc phát sinh như sau:
Việc phạt chậm nộp tiền thuế: về bản chất, mức xử phạt 0, 05% /ngày là khoản lãi chậm nộp tiền thuế, không nên coi là tiền phạt; nếu coi là khoản phạt sẽ thì sẽ có hành vi được hiểu nhầm một hành vi vi phạm về thuế bị xử phạt 2 lần (ví dụ hành vi khai sai dẫn đến thiếu thuế vừa bị phạt 10% trên số thuế thiếu, vừa bị phạt chậm nộp 0, 05%/ngày/số tiền thuế chậm nộp).Luật Quản lý thuế sửa đổi năm 2012 đã sửa đổi tên điều 106 “Xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế” thành “Xử lý đối với việc chậm nộp tiền thuế” đã thể hiện rõ bản chất đây là biện pháp kinh tế trong quản lý áp dụng đối với người nộp thuế có hành vi chậm nộp thuế mà không phải là biện pháp xử phạt hành chính.
Ngoài ra, việc xử lý phạt chậm nộp tiền thuế theo mức 0, 05% mỗi ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp (theo Điều 103, 106 Luật Quản lý thuế) thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng nên dẫn đến tình trạng doanh nghiệp chiếm dụng tiền thuế. Khắc phục điểm bất cập này, Luật Quản lý thuế sửa đổi năm 2012 quy định: