Trình Tự, Thủ Tục Thực Hiện Hoạt Động Môi Giới Chứng Khoán Của Ctck

Ngoài các vấn đề chung như thực hiện hợp đồng, giải quyết tranh chấp, các CTCK thường đưa vào một cam kết mặc định cho mọi khách hàng, thông thường là những quy định có lợi cho CTCK, cụ thể như:

- Khi ký tên vào hợp đồng môi giới, khách hàng mặc nhiên thừa nhận giá cả chứng khoán có thể và luôn luôn biến động, và một chứng khoán bất kỳ đều có thể lên giá hoặc xuống giá, và trong một số trường hợp có thể hoàn toàn vô giá trị. Khách hàng công nhận rằng luôn có một rủi ro tiềm tàng là thua lỗ có thể xuất hiện nhiều hơn là có lãi khi mua và bán chứng khoán.

- Khi ký tên vào hợp đồng môi giới, mặc nhiên khách hàng thừa nhận CTCK đã thông báo đầy đủ với khách hàng về chức năng, giấy phép hoạt động, phạm vi kinh doanh, vốn điều lệ, người đại diện ký hợp đồng của Công ty.

- Khi ký tên hoặc ủy quyền cho người khác ký vào phiếu lệnh, khách hàng mặc nhiên thừa nhận đã cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đề nghị CTCK thực hiện dịch vụ cho mình và phiếu lệnh là một phần của Hợp đồng này.

- Khi ký tên vào hợp đồng môi giới, khách hàng cam kết rằng hiện tại khách hàng chưa thực hiện mở tài khoản giao dịch chứng khoán hoặc không còn là chủ tài khoản giao dịch chứng khoán tại bất kỳ CTCK nào đang hoạt động tại Việt Nam.

- Khách hàng thừa nhận rằng việc đặt lệnh mua/ bán chứng khoán qua Internet và/hoặc qua điện thoại luôn tồn tại những rủi ro tiềm tàng do lỗi của hệ thống hoặc của bất cứ bên thứ ba nào khác. Khách hàng cam kết chấp nhận mọi rủi ro, mất mát hoặc thiệt hại nào khác phát sinh từ việc giao dịch qua Internet và/hoặc qua điện thoại do lỗi hệ thống, lỗi của bên thứ ba nào khác hoặc do các hành vi của khách hàng ảnh hưởng đến thực hiện giao dịch mua/bán chứng khoán hoặc sử dụng tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng. Khách hàng cam kết tuân thủ nghiêm chỉnh các hướng

dẫn, quy định của công ty về việc sử dụng tài khoản hoặc thực hiện giao dịch mua/bán chứng khoán qua Internet và hoặc qua điện thoại.

2.3 Trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán của CTCK

Theo quy định của hầu hết các quốc gia có TTCK mới nổi thì chỉ những CTCK là thành viên của TTGDCK hoặc SGDCK mới được phép giao dịch chứng khoán tại sàn giao dịch mà nó là thành viên. Ví d ụ: Theo quy định của Luật Chứng khoán Thái Lan (Điều 158): Một CTCK làm môi giới hay đại diện giao dịch chứng khoán tại SGDCK phải là thành viên của SGDCK

Việt Nam, mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam muốn giao dịch chứng khoán (mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán) phải thông qua các CTCK là thành viên của TTGDCK (SGDCK), thành viên của TTGDCK (SGDCK) là các CTCK có giấy phép hoạt động môi giới và tự doanh; Có hệ thống nhận lệnh và chuyển lệnh và các trạm đầu, cuối đảm bảo khả năng kết nối với hệ thống giao dịch của SGDCK/TTGDCK, được SGDCK/TTGDCK chấp thuận qua hệ thống giao dịch của SGDCK/TTGDCK(14).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Giao dịch chứng khoán khởi đầu bằng việc đặt lệnh mua bán tại Văn phòng giao dịch tại CTCK đặt tại các địa điểm khác nhau trong cả nước. Trước khi đặt lệnh, khách hàng phải làm thủ tục mở tài khoản tại CTCK và chuyển tiền vào tài khoản. Lệnh của khách hàng

được chuyển từ Văn phòng CTCK đến người đại diện của công ty tại sàn giao dịch của sở giao dịch chứng khoán. Các lệnh mua bán được

Pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán ở Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện - 7

đấu giá với nhau. Kết quả giao dịch sẽ được thông báo lại cho CTCK


14 Theo Quyết định số 03/QĐ-SGDHCM của Tổng giám đốc SGDCK ngày 04/1/2008 ban hành Quy chế thành viên giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thì Thành viên giao dịch tại SGDCK là CTCK được SGDCK chấp thuận trở thành thành viên giao dịch

Quyết định số 243/QĐ-TTGDHN ngày 12/9/2007 của Giám đốc TTGDCK Hà Nội ban hành Quy chế thành viên giao dịch tại Trung tâm GDCK Hà Nội

và khách hàng của công ty. Những lệnh được thực hiện sẽ chuyển sang hệ thống thanh toán và lưu ký chứng khoán làm các thủ tục thanh toán chuyển giao chứng khoán và tiền. Cụ thể như sau:

- Bước 1: Nhà đầu tư đến mở tài khoản, chuyển tiền vào tài khoản và và đặt lệnh mua hay bán chứng khoán tại CTCK.

- Bước 2: CTCK chuyển lệnh đó cho đại diện của công ty tại Trung tâm giao dịch chứng khoán để nhập vào hệ thống giao dịch của Trung tâm.

- Bước 3: Trung tâm giao dịch chứng khoán thực hiện ghép lệnh và thông báo kết quả giao dịch cho CTCK.

- Bước 4: CTCK thông báo kết quả giao dịch cho nhà đầu tư.


- Bước 5: Nhà đầu tư nhận được chứng khoán (nếu là người mua) hoặc tiền (nếu là người bán) trên tài khoản của mình tại CTCK sau 3 ngày làm việc kể từ ngày mua bán nếu quy định về thời gian thực hiện thanh toán bù trừ chứng khoán là T +3.

2.3.1 Mở tài khoản giao dịch chứng khoán cho khách hàng

Khách hàng muốn tham gia giao dịch trên TTCK tập trung đến một CTCK có hoạt động môi giới chứng khoán mở một tài khoản giao dịch. Khách hàng điền đầy đủ thông tin vào giấy yêu cầu mở tài khoản tại CTCK với những nội dung như: Tên đầy đủ, Địa chỉ thường trú, Số điện thoại, Số chứng minh thư, Các thông tin khác như số tài khoản tại ngân hàng, số tài khoản tại CTCK (nếu có), mẫu chữ kýSau đó, nhà đầu tư sẽ ký Hợp đồng giao dịch với CTCK trên cơ sở mẫu Hợp đồng mở tài khoản giao dịch (còn gọi là Hợp đồng môi giới chứng khoán). Việc mở tài khoản chứng khoán hiện nay được các CTCK thựu hiện miễn phí. Tuy nhiên, nếu khách hàng muốn giao dịch, mua bán chứng khoán thì phải chuyển tiền vào tài khoản thì mới có thể giao dịch được.

2. 3. 2 CTCK chuyển lệnh cho đại diện của công ty tại TTGDCK/ SGDCK

Khách hàng của CTCK thực hiện ra lệnh cho nhà môi giới bằng phiếu lệnh in sẵn của CTCK. Trong trường hợp này lệnh giao dịch phải bao gồm đẩy đủ thông tin do khách hàng điền, đó là những điều kiện đảm bảo an toàn cho CTCK cũng như tạo sự yên tâm cho khách hàng khi phát lệnh.

Lệnh giao dịch theo phương thức khớp lệnh bao gồm lệnh giới hạn và lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh. Trong đó, Lệnh giới hạn là lệnh mua hoặc bán chứng khoán do người đầu tư đưa ra cho người môi giới thực hiện theo mức giá chỉ định hoặc tốt hơn.

Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh (viết tắt là ATO) là lệnh mua hoặc bán chứng khoán nhưng không ghi mức giá, do người đầu tư đưa ra cho người môi giới để thực hiện theo mức giá khớp lệnh.

Lệnh giới hạn nhập vào hệ thống giao dịch theo phương thức khớp lệnh bao gồm các nội dung sau:

- Lệnh mua, lệnh bán;

- Mã chứng khoán;

- Số lượng;

- Giá;

- Số hiệu tài khoản giao dịch của người đầu tư;

- Ký hiệu lệnh giao dịch theo quy định của TTGDCK hoặc SGDCK.


Về phương thức nhận lệnh:

CTCK trực tiếp nhận lệnh giao dịch chứng khoán của khách hàng bằng phiếu lệnh tại trụ sở chính, chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh.

Có hai phương thức nhận lệnh chủ yếu là nhận lệnh trực tiếp từ khách hàng, bằng phiếu lệnh in sẵn của CTCK và nhận lệnh qua điện thoại, faxTrường hợp CTCK nhận lệnh giao dịch chứng khoán thông qua các phương tiện điện thoại, fax, telex, mạng Internet, thành viên yêu cầu khách

hàng gửi phiếu lệnh trong ngày giao dịch. Phiếu lệnh do khách hàng lập phải được lưu trữ tại địa điểm nhận lệnh.

Về địa điểm nhận lệnh:

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, CTCK được nhận lệnh qua trụ sở chính, chi nhánh, phòng giao dịch và đại lý nhận lệnh.

Mọi hành vi của CTCK và nhân viên của công ty nhận lệnh giao dịch của khách hàng bên ngoài địa điểm nhận lệnh trên đều bị coi là vi phạm pháp luật. Luật Chứng khoán Trung Quốc cũng có những quy định tương tự nhằm mục đích là quản lý chặt chẽ các giao dịch do nhà môi giới thực hiện, tránh những giao dịch giả tạo, nhằm đảm bảo lợi ích cho nhà đầu t•: CTCK và nhân viên nghiệp vụ của mình không được tự nhận lệnh mua, bán chứng khoán của khách hàng thông qua địa điểm kinh doanh thành lập theo quy định pháp luật của mình(Điều 144).

Về điều kiện nhận lệnh:

CTCK chỉ được nhận lệnh khi có đủ tiền và chứng khoán ký quỹ theo tỷ lệ quy định của pháp luật và phải có các biện pháp cần thiết đảm bảo khả năng thanh toán của khách hàng khi lệnh giao dịch được thực hiện.

Quy định này nhằm tránh việc mua bán khống (short-sale) chứng khoán trên TTCK (15).

Hiện nay, UBCKNN đang gấp rút hoàn thành dự thảo quy định chi tiết thực hiện Mục 9, Điều 71, Luật Chứng khoán về giao dịch khống chứng khoán: CTCK được “Thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chính”.



15 Mua bán khống: Hành động bán đi một chứng khoán không thuộc sở hữu của người bán nhưng cam kết sẽ bằng cách này hay cách khác trả lại đúng số lượng & chủng loại chứng khóan đã vay. Hoạt động này dùng để thu lợi từ sự giảm giá chứng khoán được kỳ vọng (Selling a security that the seller does not own but is committed to repurchasing eventually. It is used to capitalize on an expected decline in the security's price)

Với nghiệp vụ bán khống chứng khoán, nhà đầu tư có thể kinh doanh chứng khoán thông qua hình thức vay mượn vốn của CTCK hay ngân hàng chuyên về lĩnh vực đầu tư chứng khoán để mua bán chứng khoán.

Để vay mượn được tiền thì nhà đầu tư phải đặt cọc một số tiền cho CTCK vào tài khoản gọi là tài khoản margin (còn được gọi là tài khoản ký quỹ hay tài khoản bảo chứng). Tỷ lệ đặt cọc tùy theo CTCK quy định (có thể vay được từ 30%-100% số tiền cần dùng để mua chứng khoán).

Nhà đầu tư không chỉ được vay tiền để mua bán chứng khoán mà còn có thể vay chứng khoán để bán ra. Ở nước ta, tuy nghiệp vụ này chưa được triển khai trên thị trường nhưng thực tế đã xuất hiện dưới một hình thức khác. Cụ thể như nghiệp vụ Repo chứng khoán phần nào mang tính chất của nghiệp vụ bán khống chứng khoán. Thị trường vừa qua cho thấy nhu cầu của các nhà đầu tư về loại hình dịch vụ này là không nhỏ và đến nay hầu như các công ty chứng khoán đều triển khai thực hiện.

Không thể phủ nhận là hoạt động bán khống chứng khoán có những rủi ro nhất định cho nhà đầu tư, CTCK hoặc có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường - như trường hợp vay mượn quá nhiều để mua chứng khoán...

Nhưng trong thời gian tới, theo lộ trình mở về dịch vụ tài chính thì việc thực hiện nghiệp vụ bán khống trong lĩnh vực chứng khoán là xu thế tất yếu để đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, cũng như các tổ chức môi giới chứng khoán chuyên nghiệp.

Luật Chứng khoán nước ta cho phép thực hiện nghiệp vụ này nhưng gắn chặt trách nhiệm của CTCK với nhà đầu tư bằng việc quy định các công ty này phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp hoặc trích lập quỹ bảo vệ cho nhà đầu tư để bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư do sự cố công ty gây ra.

Thông thường các CTCK có hoạt động tự doanh sẽ được phép triển khai nghiệp vụ bán chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán. Các CTCK chỉ được cho nhà đầu tư vay chứng khoán ngắn hạn với mức tối đa bằng 20% số chứng khoán mà công ty đang nắm giữ. Nhiều CTCK cho rằng nghiệp vụ này sẽ tạo động lực cho thị trường phát triển và giúp hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư.

Bán khống chứng khoán sẽ tạo tính thanh khoản cho chứng khoán, tăng cường giao dịch chứng khoán và tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Tuy nhiên, khi cho phép hoạt động mua, bán khống trên TTCK, pháp luật cần phải quy định chặt chẽ để điều chỉnh hoạt động này, hệ thống giám sát

đủ mạnh để tránh những hiện tượng làm lũng đoạn thị trường; nhất là với thực trạng TTCK Việt Nam còn non trẻ, thiếu ổn định như hiện nay.

Pháp luật các quốc gia trên thế giới không cấm việc mua bán khống chứng khoán trên TTCK mà có những quy định nhằm kiểm soát những hành vi đó, tận dụng được những điểm mà hành vi này đem lại và kiểm soỏt những hạn chế của chúng.

Một số quốc gia có TTCK mới nổi thường cấm các giao dịch chứng khoán khống. Ví dụ, Luật Chứng khoán Trung quốc, hiện tượng mua-bán khống chứng khoán trên TTCK bị cấm: CTCK nhận lệnh bán ra chứng khoán phải là chứng khoán có thực trên tài khoản chứng khoán của khách hàng, không được là giao dịch bán khống. CTCK nhận lệnh mua vào chứng khoán phải thanh toán bằng tiền thực có trên tài khoản tiền của khách hàng, không được giao dịch mua khống

Các quốc gia có TTCK hoạt động lâu năm, chuyên nghiệp thì việc mua bán khống lại không bị cấm. Theo Luật Chứng khoán Mỹ, giao dịch chứng khoán khống được phép nhưng không phải là giao dịch tự do mà trong tầm kiểm soát nhất định.

2.3.3 TTGDCK/SGDCK thực hiện việc ghép lệnh và thông báo kết quả giao dịch cho CTCK

CTCK phải kiểm tra trước khi chuyển lệnh đó đến SGDCK, các hạng mục cần kiểm tra là các thông tin mà khách hàng diền ở trong phiếu lệnh trước đó.

Sau khi lệnh của khách hàng được kiểm tra và đã tuân thủ những điều kiện nhất định thì CTCK thực hiện lệnh chuyển đến đại diện của CTCK tại SGDCK bằng nhiều phương thức khác nhau. Tại đây, các lệnh được ghép với nhau theo các phương thức tạo lập giá hoặc là thủ công, hoặc là lập giá bằng máy tính. Trong phạm vi bài viết không nghiên cứu sâu về các kỹ thuật lập giá nói trên.

Sau khi có kết quả, Trung tâm xác nhận kết quả giao dịch khớp lệnh chứng khoán tới các thành viên (CTCK) thông qua màn hình của đại diện giao dịch tại TTGDCK hoặc SGDCK. Nội dung kết quả giao dịch bao gồm:

- Số hiệu lệnh giao dịch;

- Số hiệu xác nhận giao dịch;

- Mã chứng khoán;

- Giá thực hiện;

- Số lượng mua hoặc bán;

- Thời gian giao dịch được thực hiện;

- Lệnh mua hoặc bán;

- Ký hiệu của lệnh;

- Số hiệu tài khoản của khách hàng;

- Số hiệu đại diện giao dịch của thành viên.

2.3.4 CTCK thông báo kết quả giao dịch cho nhà đầu tư

Sau khi được trung tâm xác nhận kết quả giao dịch thông báo kết quả, người đại diện của CTCK tại TTGDCK/SGDCK sẽ thông báo cho CTCK của mình và CTCK có nghĩa vụ thông báo cho người đầu tư (khách

Ngày đăng: 04/02/2025

Gửi bình luận


Đồng ý Chính sách bảo mật*