Đặc Trưng, Chức Năng Và Vai Trò Của Hoạt Động Môi Giới Chứng Khoán

của thị trường chứng khoán là chỉ dựa vào các hoạt động giao dịch được cấp phép giữa những người trung gian làm nghề môi giới chứng khoán.

Khoản 20, Điều 6, Luật chứng khoán 2006 nêu khái niệm “Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng”. Nhưng trong thực tế thì không chỉ có công ty chứng khoán mới thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán.

Khái niệm môi giới chứng khoán của Hiệp hội những nhà kinh doanh chứng khoán (NASD) gồm các ý sau:

- Là một cá nhân hay tổ chức tính phí hoặc hưởng hoa hồng cho việc thực hiện lệnh mua hoặc bán cho một cá nhân hay một tổ chức khác.

- Là hoạt động của công ty môi giới khi hoạt động như một đại lý cho khách hàng và hưởng hoa hồng cho dịch vụ thực hiện.

- Người tham gia vào việc thực hiện giao dịch chứng khoán vì lợi ích của những người khác, trừ ngân hàng.

Với cách tiếp cận như vậy, người môi giới chứng khoán, hiểu theo nghĩa rộng, là những người trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng; trung gian mua bán chứng khoán bằng vốn của mình; và là người bảo lãnh phát hành cho những tổ chức phát hành chứng khoán. Người môi giới chứng khoán có thể là các tổ chức tài chính quốc doanh hoặc tổ chức tài chính thuộc khu vực kinh tế tư nhân với hai hình thức công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn.

Ở Việt Nam, khái niệm môi giới chứng khoán mặc dù dần trở nên quen thuộc nhưng nhiều người vẫn coi môi giới chứng khoán như một loại trung gian, hay một loại “cò” giống như “cò” đất, “cò” xe… mà không hiểu bản chất của môi giới chứng khoán là một tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc nhất định. Để trở thành một nhà môi giới chứng khoán giỏi, có tiếng tăm và có nhiều khách hàng thì khi và chỉ khi khách hàng của nhà môi giới đó thu được nhiều lợi nhuận. Ở các thị trường chứng khoán có tổ chức, các nhà môi giới chứng khoán không hoạt động với tư cách cá nhân độc lập. Mỗi cá nhân người môi giới chứng khoán, dù hoạt động trong lĩnh vực nào, cũng thường đại diện cho một công ty chứng khoán. Vì vậy, các công ty chứng

khoán phải chọn người môi giới có phẩm chất đạo đức, có kiến thức chuyên môn về thị trường chứng khoán nói chung và về môi giới chứng khoán nói riêng.

Có thể nói việc hình thành và phát triển nghề môi giới chứng khoán là một tất yếu khi thị trường chứng khoán phát triển ở trình độ cao, khi sản phẩm và dịch vụ ngày càng đa dạng về số lượng và phong phú về chủng loại. Khi đó, nhà đầu tư sẽ càng cần hơn những người môi giới có thể cung cấp cho họ những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư mới mẻ, những lời khuyên mang tính chiến lược và giúp cho họ đầu tư theo hướng hiệu quả nhất. Từ yêu cầu thực tế đó, đòi hỏi hoạt động môi giới chứng khoán phải phát triển ở trình độ cao, mang tính chuyên nghiệp, nói cách khác là trở thành nghề môi giới chứng khoán. Như vậy, có thể hiểu nghề môi giới chứng khoán là hoạt động nghiệp vụ trong sự tương tác giữa công ty môi giới, nơi cung cấp phương tiện vật chất, tổ chức, pháp lý và nhân viên môi giới – người trực tiếp giao dịch với khách hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

Một công ty chứng khoán muốn thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán cần phải đáp ứng hai điều kiện, đó là điều kiện về vốn và điều kiện về nhân lực.

Điều kiện về vốn: Khoản 1, Điều 18, 14/2007/NĐ – CP quy định về vốn pháp định cho nghiệp vụ môi giới chứng khoán là 25 tỷ đồng Việt Nam.

Phát triển hoạt động môi giới tại công ty cổ phần chứng khoán VNS - 4

Điều kiện về nhân lực: Để được thực hiện hoạt động môi giới công ty chứng khoán cần có ít nhất 3 nhân viên hành nghề môi giới chứng khoán.

Một cá nhân muốn hành nghề môi giới chứng khoán thì phải được cấp Chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán. Theo Khoản 1, Điều 4 Quyết định số 15/2008/QĐ-BTC ngày 27/3/2008 về việc ban hành “Quy chế hành nghề chứng khoán”, để được hành nghề môi giới chứng khoán, cá nhân phải được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán. Chứng chỉ này được cấp khi cá nhân đáp ứng các điều kiện như:

- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không thuộc trường hợp đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc bị toà án cấm hành nghề kinh doanh.

- Chưa từng bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xử phạt theo pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán hoặc đã chấp hành xong quyết định xử phạt sau 1 năm, trong trường hợp bị xử phạt.

- Có trình độ đại học trở lên.

- Đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán, phù hợp với loại chứng chỉ hành nghề chứng khoán đề nghị cấp.

- Có các chứng chỉ chuyên môn về chứng khoán, bao gồm: Chứng chỉ những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Chứng chỉ pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Chứng chỉ phân tích và đầu tư chứng khoán, Chứng chỉ môi giới chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán.

2. Đặc trưng, chức năng và vai trò của hoạt động Môi giới chứng khoán

2.1. Đặc trưng của hoạt động Môi giới chứng khoán

Đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán là những xung đột, tranh chấp lợi ích không thể tránh khỏi trong lĩnh vực này. Ở đây, khái niệm “tranh chấp lợi ích” không bao hàm hành vi của người môi giới hoặc khách hàng cố tình vi phạm pháp luật để kiếm lời một cách bất chính. Tranh chấp hay xung đột lợi ích có thể xảy ra trong những trường hợp như việc người môi giới không sẵn sàng thông báo với khách hàng của mĩnh về những diễn biến xấu của khoản đầu tư do chính anh ta khuyến nghị với khách hàng, và khi khách hàng bị thiệt hại thì việc bắt lỗi và xử lý người môi giới là rất khó. Hoặc có những trường hợp khách hàng do không thực sự hiểu biết về trách nhiệm và khả năng của người môi giới, nên đã kỳ vộng một cách không hợp lý về những gì mà nhà môi giới có thể mang lại cho mình, và đã khiếu nại khi thực tế xảy ra trái với những gì họ mong nuốn.

Người môi giới sống bằng tiền hoa hồng hay là khoản chênh lệch giá trong việc mua hoặc bán những lợi ích tài chính. Như thế, những lợi ích tài chính của riêng họ có thể xung đột với nhu cầu và mục tiêu của khách hàng. Với tư cách là người đại diện hay người được ủy quyền của khách hàng, người môi giới luôn luôn phải dẹp đi xung đột này để phục vụ lợi ích cao nhất của khách hàng – cái phải được ưu tiên hàng đầu.

Các công ty môi giới có thể gây áp lực lớn, buộc nhân viên môi giới của mình phải bán được những sản phẩm nhất định hoặc đạt được mức tổng sản lượng nhất định. Áp lực như vậy có thể thấy dưới nhiều hình thức, từ việc cấp văn phòng riêng cho tới việc tiếp tục thuê nhân viên đó. Giải pháp cho những việc xung đột như vậy, nói chung, đơn giản chỉ là đặt lợi ích của khách hàng lên trên hết. Các công ty chứng khoán có thể tăng hoa hồng để khuyến khích người môi giới thực hiện nhiều giao dịch và có thể nói mức hoa hồng càng cao, được tạo ra càng thường xuyên thì càng tốt về mặt kinh tế đối với người môi giới và cũng kích thích tăng nguồn thu cho công ty. Song các công ty chứng khoán hay là những người môi giới chứng khoán cũng phải luôn luôn vì lợi ích của khách hàng, khách hàng phải được bán những sản phẩm phù hợp với nhu cầu cá nhân, với khối lượng thích hợp và việc bán hàng phải diễn ra một cách hợp lý, trung thực trên cơ sở cả hai bên cùng có lợi. Nếu như tư cách đại diện được tạo lập trên sự tín nhiệm và trên cơ sở pháp lý thì một khách hàng công bằng hầu như không thể trách cứ người môi giới hay công ty môi giới của họ nếu như những khuyến nghị mà người môi giới đưa ra không mang lại những kết quả mỹ mãn.

Tóm lại, nếu các cố vấn tài chính và những khách hàng của họ ý thức được đầy đủ hơn thì họ sẽ hành động thận trọng và tránh được những tranh chấp, hay ít nhất cũng giảm thiểu được những thiệt hại và chi phí để giải quyết tranh chấp.

2.2. Chức năng của Môi giới chứng khoán

Với tư cách là một hoạt động nghiệp vụ trong sự tương tác giữa công ty môi giới – nơi cung cấp phương tiện vật chất kỹ thuật, tổ chức và pháp lý, nhân viên môi giới – người trực tiếp tiếp thị và giao dịch với khách hàng, môi giới chứng khoán có 2 chức năng chính sau đây:

Thứ nhất là cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng.

Công ty chứng khoán thông qua các nhân viên môi giới cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và những khuyến nghị đầu tư. Việc nghiên cứu này được tiến hành thông qua bộ phận nghiên cứu trong công ty chứng khoán. Bộ phận này nghiên cứu các lĩnh vực chủ yếu như: diễn biến tổng thể của thị trường, động thái của từng khu vực riêng biệt trong thị trường đó, hay hoạt động của từng công ty

trong khu vực. Những thông tin nay, các nhà nghiên cứu cung cấp cho các nhà môi giới hàng tuần, kèm theo đó là những khuyến nghị cụ thể về từng loại chứng khoán cần mua và cần bán. Nhà môi giới sẽ sử dụng những thông tin này để cung cấp cho khách hàng của mình theo những yêu cầu cụ thể.

Các nhà môi giới hàng ngày tiếp cận với một mạng thông tin điện tử cung cấp các thông tin tài chính liên tục và được cập nhật về lãi suất, kinh tế, thông tin thị trường, và cũng được tiếp cận với tất cả các tin tức mới nhất từ khắp nơi trên thế giới liên quan đến cổ phiếu của khách hàng.

Nhờ nguồn thông tin được thu thập và xử lý công phu này, người môi giới có đủ tri thức để trở thành nhà tư vấn tài chính của riêng của khách hàng. Ngoài việc đề xuất với khách hàng những chứng khoán và dịch vụ đơn thuần, người môi giới cũng có thể giới thiệu với khách hàng những cổ phiếu, trái phiếu mới phát hành, các chứng chỉ quỹ đầu tư và các công cụ đầu tư khác. Quan trọng hơn hết, người môi giới có thể đề xuất một cách thức kết hợp các chứng khoán đơn lẻ trong một tổng thể (danh mục đầu tư) để giảm thiểu rủi ro và tăng tối đa lợi nhuận.

Người môi giới cho nhà đầu tư biết lúc nào thì họ nên mua, lúc nào thì nên bán và đồng thời cung cấp cho họ những thông tin kinh tế tài chính trên thị trường. Người môi giới khi đưa ra các lời khuyên cho khách hàng của mình, sẽ dựa trên các yếu tố như hệ số giá, thu nhập, các dự đoán về thu nhập và giá, tình trạng chung của nhóm ngành của cổ phiếu và trạng thái tổng thể của thị trường.

Người môi giới không chỉ là người đưa ra các khuyế nghị về tài chính cho khách hàng mà đôi khi còn lại một người bạn tin cẩn, có thể lắng nghe tất cả các câu hỏi liên quan tới tình trạng tài chính của khách hàng, và trong một chừng mực có thể , đưa ra giải pháp thích đáng giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn. Do đó, tìm được một nhà moi giới giỏi hành nghề và thật tâm huyết là mong muốn của bất cứ nhà đầu tư chứng khoán nào.

Thứ hai là cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tài chính, giúp khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và lợi ích của họ.

Người môi giới nhận các đơn dặt hàng từ khách hàng và thực hiện giao dịch cho họ. Quá trình này bao gồm một loạt công việc, từ hướng dẫn khách hàng mở tài

khoản tại công ty, tiến hành giao dịch, xác nhận giao dịch đến thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho khách hàng. Không chỉ có vậy, sau khi giao dịch đã được thực hiện, người môi giới còn phải tiếp tục chăm sóc tài khoản của khách hàng, tiếp tục đưa ra những khuyến cáo và cung cấp thông tin , theo dõi để nắm bắt những thay đổi trong đời sống, công việc mà có thể dẫn tới những thay đổi trong tình trạng tài chính và thái độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Từ đó đề xuất những giải pháp hay chiến lược mới thích hợp.

Công ty chứng khoán là nơi đảm bảo những điều kiện vật chất, bao gồm: địa điểm, hệ thống máy móc thiết bị nối mạng với Sở giao dịch, nhân lực (đội ngũ nhân viên tác nghiệp) và pháp lý để cho quá trình này được thực hiện nhanh chóng, chính xác và hiệu quả; đồng thời khi xảy ra tranh chấp thì có thể xử lý được một cách thỏa đáng. Để làm được chức năng này, công ty được tổ chức theo những phòng ban chức năng phù hợp, với những quy trình hoạt động chặt chẽ, khoa học.

2.3. Vai trò của Môi giới chứng khoán

Vì, có thể nói, môi giới chứng khoán là hoạt động hạt nhân của thị trường chứng khoán nên vai trò của môi giới chứng khoán là rất quan trọng.

Sau đây là một số vai trò cơ bản của môi giới chứng khoán.

Thứ nhất là phát triển sản phẩm và dịch vụ trên thị trường.

Công ty chứng khoán và các nhân viên môi giới của họ, khi thực hiện làm vai trò trung gian giữa người mua (nhà đầu tư) và người bán (nhà phát hành), có thể nắm bắt nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung cấp hàng hóa và dịch vụ, cung cấp những ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Kết quả của quá trình đó là đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, phát triển cơ cấu khách hàng, thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu tư và tăng trưởng.

Một ví dụ về sự thành công là công ty Merrill Lynch. Trong thập niên 60 – 70, trong khi hoạt động chủ yếu của các công ty chứng khoán mới chỉ là buôn bán cổ phiếu và trái phiếu, thì Merrill Lynch đã tìm kiếm những dịch vụ mà khách hàng cần. qua đó đã phát triển và tạo ra Tài khoản quản lý tiền mặt (CMA) và Tài khoản

tiếp cận vốn tự có. Nhờ vậy mà công ty này đã vươn lên hẳn các đối thủ cạnh tranh vào thời kỳ đó.

Thứ hai là giảm chi phí giao dịch.

Khi mua bán bất kỳ một loại hàng hóa nào, để tiến hành giao dịch thì n gười mua và người bán phải gặp nhau, xem xét chất lượng hàng hóa và thỏa thuận giá cả.

Trên thị trường chứng khoán với đặc trưng là một thị trường của những sản phẩm và dịch vụ bậc cao, để thẩm định chất lượng, giá cả của hàng hóa, người ta cần một khoản chi phí khổng lồ để phục vụ cho việc thu thập và xử lý thông tin, đào tạo kỹ năng phân tích và tiến hành quy trình giao dịch trên một thị trường đấu giá tập trung. Những chi phí đó chỉ có các công ty chứng khoán hoạt động chuyên nghiệp trên quy mô lớn mới có khả năng trang trải. Mặt khác, một tổ chức trung gian chuyên nghiệp như vậy làm cầu nối cho các bên mua và bán gặp nhau sẽ làm giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn thảo và giám sát thực thi hợp đồng. Như thế, vai trò của nghề môi giới chứng khoán là tiết kiệm được chi phí giao dịch, xét trong từng giao dịch cụ thể cũng như trên tổng thể thị trường. Nhờ đó, giúp nâng cao tính thanh khoản của thị trường.

Thứ ba là góp phần hình thành nền văn hóa đầu tư.

Hoạt động của người môi giới chứng khoán khi thâm nhập sâu vào cộng đồng các doanh nghiệp và người đầu tư sẽ là một yếu tố quan trọng hình thành nền văn hóa đầu tư. Khi các nhân viên môi giới tiếp cận và mang theo những sản phẩm tài chính phù hợp với yêu cầu của khách hàng, hoạt động này lâu dần sẽ hình thành nên thói quen đầu tư vào tài sản tài chính. Hơn nữa, hoạt động này sẽ làm tăng thói quen và các kỹ năng sử dụng các dịch vụ đầu tư, mà phổ biến là dịch vụ môi giới chứng khoán. Cùng với đó là sự tăng cường hiểu biết môi trường pháp lý và ý thức tuân thủ pháp luật vì hoạt động môi giới chứng khoán là một nơi phát sinh và bộc lộ những xung đột lợi ích giữa các bên tham gia thị trường.

Thứ tư là tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ nhờ cạnh tranh.

Để thành công trong nghề môi giới chứng khoán, các công ty chứng khoán và từng người môi giới phải thu hút được khách hàng tìm đến, giữ chân khách hàng và tăng cường khối tài sản mà khách hàng ủy thác cho họ quản lý. Điều này tạo ra

sự cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán và từng người môi giới chứng khoán với nhau. Chính vì vậy, góp phần không nhỏ làm tăng chất lượng và hiệu quả của dịch vụ.

Thứ năm là hình thành những dịch vụ mới trong nền kinh tế, tạo thêm việc làm và làm phong phú thêm môi trường đầu tư.

Với phương châm là chủ động tìm đến với khách hàng, cung cấp những dịch vụ tài chính tốt nhất, nên công ty chứng khoán nào cũng có lực lượng những người môi giới đông đảo. Ví dụ như công ty Merrill Lynch ở Mỹ có tới 13.000 nhân viên môi giới hay những công ty chứng khoán nhỏ khác của Mỹ cũng có không dưới

1.000 nhân viên môi giới. Có thể nói, phát triển dịch vụ môi giới chứng khoán đã góp phần tạo ra nhiều việc làm mới cho nền kinh tế và cũng làm phong phú thêm môi trường kinh doanh.

3. Quy trình thực hiện một giao dịch chứng khoán

Hoạt động môi giới là một hoạt động đóng vai trò không thể thiếu trong việc thực hiện một giao dịch chứng khoán. Vì vậy, người môi giới cần phải nắm rõ một quy trình giao dịch thông thường để tìm cách phát huy vai trò của mình trong mỗi công đoạn, sao cho mang lại lợi ích tốt nhất đến với khách hàng.

Việc thực hiện một giao dịch chứng khoán nói chung bao gồm các công việc chuẩn bị hệ thống đưa vào và truyền lệnh giữa các bên, phát hiện giá cân bằng, thực hiện lệnh, báo cáo giao dịch, giám sát và thông tin thị trường. Những công việc và hệ thống này có thể từ những thủ tục giấy tờ đơn giản đến các hệ thống thông tin và xử lý bằng máy điện tử, phụ thuộc vào yêu cầu của từng thị trường. Các giao dịch giữa khách hàng và một người môi giới chứng khoán, nói chung, được thực hiện trực tiếp giữa hai bên. Trái lại, giao dịch giữa hai người môi giới chứng khoán thường được thực hiện thông qua một cơ chế thị trường, chẳng hạn như một sở buôn bán trung tâm nơi người mua và người bán gặp nhau, thị trường qua quầy truyền thống, hoặc hệ thống thực hiện giao dịch tự động. Trong toàn bộ quy trình giao dịch, bộ phận hành chính luôn làm việc. Họ tính toán, nhập sổ sách các khoản tiền hoa hồng, thanh toán các chi phí, vào tài khoản doanh thu, tuyển người…

Quy trình giao dịch thông thường bao gồm các bước sau:

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 07/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí