Thứ ba là xác định cơ chế tài chính cho hoạt động xúc tiến quảng bá. Thực tế hiện nay cơ chế tài chính của Việt Nam còn nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế và theo kịp sự phát triển chung, điều đó làm cho các đơn vị làm công tác xúc tiến quảng bá gặp nhiều khó khăn khi triển khai các hoạt động vì đây là một hoạt động khá đặc thù, nhất là thường xuyên làm việc với đối tác nước ngoài hoặc làm ở nước ngoài.
Do vậy cần xây dựng một cơ chế để các cơ quan, tổ chức, các nhân khi làm công tác xúc tiến quảng bá chủ động hơn trong các hoạt động. Có chính sách ưu đãi tài chính thuận lợi, trao quyền chủ động hơn cho cơ quan quản lý nhà nước về xúc tiến quảng bá du lịch và cho các tổ chức, các nhân, các doanh nghiệp làm công tác xúc tiến quảng bá.
3.4.4. Tăng cường phối hợp liên ngành trong hoạt động xúc tiến, quảng bá của du lịch Việt Nam
Hệ thống bộ máy làm công tác xúc tiến du lịch của Việt Nam mới được hình thành, nên sự phối hợp trong Ngành còn chưa được chặt chẽ, lúng túng, bộc lộ nhiều bất cập. Việc phối kết hợp liên ngành cũng chưa tương xứng và chưa đạt được kết quả mong đợi, sự phối hợp chung còn chệch choạc. Đặc biệt là đối với công tác xúc tiến quảng bá tại các thị trường trọng điểm của Du lịch Việt Nam.
Đến nay, Du lịch Việt Nam đã chủ trì hoặc phối hợp tổ chức một số hoạt động giữa ngành Du lịch với một số ngành như văn hoá, ngoại giao, hàng không để tổ chức một số hoạt động như roadshows, ngày Việt Nam... tại một số thị trường. Nhìn chung các hoạt động này bước đầu có thu được một số kết quả nhất định trong việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, qua đó quảng bá hình ảnh Du lịch Việt Nam.
Tuy nhiên các hoạt động này còn mang tính hình thức, nội dung chương trình còn sơ sài, không ấn tượng. Do vậy mục tiêu của giải pháp này là qua đó tăng cường sự phối hợp trong Ngành Du lịch và phối hợp liên ngành để triển khai các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch có hiệu quả. Hiện này, việc hình thành Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch là một điều kiện rất thuận lợi để phối hợp các hoạt động xúc tiến quảng bá của ngành du lịch với việc tạo dựng hình ảnh của quốc gia trên thế giới.
Có kế hoạch cụ thể để thông báo tới các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp liên quan để thống nhất nội dung và biện pháp xúc tiến quảng bá ra nước ngoài trước mỗi sự kiện. Xây dựng cơ chế hợp tác, trong đó quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của các đối tượng tham gia, tránh xảy ra tình trạng không hợp tác vì quan điểm hay vì quyền lợi cục bộ. Vì vậy vai trò điều phối của Ban chỉ đạo Nhà nước về Du lịch, của Chính phủ là hết sức quan trọng đối với sự phối hợp liên ngành này.
3.4.5. Quảng bá và khai thác hiệu quả trên một số phương tiện truyền thông
Có thể bạn quan tâm!
- Định Hướng Và Quan Điểm Về Công Tác Xúc Tiến Quảng Bá Du Lịch
- Một Số Giải Pháp Cơ Bản Góp Phần Đẩy Mạnh Hoạt Động Xúc Tiến Du Lịch Việt Nam Tại Thị Trường Pháp
- Nâng Cao Tính Chuyên Nghiệp Cho Cán Bộ Làm Công Tác Xúc Tiến Quảng Bá Du Lịch
- Phân tích hoạt động xúc tiến du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp - 14
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Từ trước đến nay Du lịch Việt Nam mới chỉ dừng lại ở khâu tổ chức xúc tiến thị trường qua các sự kiện, tham gia hội chợ, phân phát ấn phẩm, vật phẩm, mời các đoàn Fam và Press vào Việt Nam đi du lịch và khảo sát. Một số hoạt động PR mang tính chuyên nghiệp thì hầu như chưa được sử dụng.
Việc quảng bá trên các phươg tiện thông tin đại chúng giữ vai trò quan trọng đối với việc xúc tiến quảng bá cho Du lịch Việt Nam. Tổ chức các hình thức quảng bá tại các thị trường trọng điểm là kinh nghiệm của rất nhiều nước có du lịch phát triển đã áp dụng, đem lại hiệu quả to lớn. Biện pháp này là cách để bổ trợ cho các biện pháp quảng bá, các hoạt động xúc tiến du lịch khác. Khả năng phát tán rộng rãi, tới nhiều tầng lớp nhân dân, hiệu quả nhanh
và có tính tập trung nhất là cho các chiến dịch quảng bá. Trong giai đoạn hiện nay, cách thức này là cần thiết cho giai đoạn phát triển và quảng bá thương hiệu điểm đến Du lịch Việt Nam.
Tập trung quảng bá trên một số kênh truyền hình, báo, tạp chí của thị trường trọng điểm Pháp và trên báo, tạp chí, kênh truyền hình nổi tiếng của Pháp có đối tượng người xem đông, phù hợp với đặc điểm thị trường trọng điểm mà chiến lược thị trường của du lịch Việt Nam đã chỉ ra (kênh TV5, báo Le Monde, tạp chí Paris Match, báo Nhân đạo...).
Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay, việc kết hợp quảng bá hình ảnh Việt Nam, đất nước, con người để qua đó xây dựng hình ảnh Du lịch Việt Nam như một điểm đến hấp dẫn, an toàn...là rất cần thiết và phù hợp với hoàn cảnh thực tế Việt Nam. Nội dung quảng bá cần được chuẩn bị kỹ lưỡng, ấn tượng, nêu được bản sắc và đặc trưng riêng của Việt Nam vì giá thành đăng tải rất tốn kém, phải đảm bảo được tính thực tế và tính hiệu quả cao.
Một trong những phương tiện truyền tải nhanh, hiệu quả đến công chúng là hệ thống mạng internet. Đây là phương tiện mà du khách sử dụng nhiều nhất trong thời đại công nghệ thông tin, họ lấy và xử lý các thông tin qua mạng và kể cả mua bán tour trực tiếp qua mạng. Do đó các giải pháp cung cấp thông tin qua mạng phải được chú trọng đẩy mạnh.
Chú trọng phát triển các trang web trong Ngành từ trung ương đến địa phương, đầu tư cho nội dung các trang web du lịch của ngành, của hệ thống cung cấp thông tin web trên phạm vi quốc gia để tạo sự cung cấp thông tin có hệ thống, dễ sử dụng, dễ liên kết truy cập.
Có kế hoạch và biện pháp cụ thể để quảng bá rộng rãi các trang web du lịch qua các phương tiện, truyền hình nước ngoài, qua các ấn phẩm, tại các hội nghị, hội thảo, các hội chợ du lịch và các sự kiện khác. Hợp tác với các
nhà cung cấp thông tin mạng để quảng bá và khai thác có hiệu quả cho Du lịch Việt Nam.
Việc quảng bá và khai thác có hiệu quả trên một số phương tiện truyền thông rất cần sự đóng góp, hỗ trợ từ phía các cơ quan thông tấn, báo chí Việt Nam. Không chỉ có các đơn vị thông tấn báo chí ngành Du lịch trực tiếp tham gia vào mà phải cần có sự tham gia cả các phương tiện thông tin đại chúng các ngành, của Nhà nước để góp phần quảng bá, tạo hình ảnh cho Du lịch.
Mới đây, tháng 10/2007, Bộ Văn hoá -Thể thao và Du lịch đã xin phép Chỉnh phủ để quảng bá hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam trên kênh truyền hình CNN, qua đó quảng bá hình ảnh Du lịch Việt Nam ra thế giới. Sự kiện này khẳng định bước đầu đi vào chuyên nghiệp, biết khai thác và sử dụng PR của Du lịch Việt Nam trong các hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch.
KẾT LUẬN
Pháp là một thị trường trọng điểm, truyền thống của Du lịch Việt Nam. Bên cạnh tiềm năng to lớn của chính thị trường này, Pháp còn được coi là một trung tâm thu hút khách của thế giới và là cánh cửa để thâm nhập vào thị trường châu Âu rộng lớn. Với quan hệ song phương tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, giáo dục, khoa học kỹ thuật..., cùng với các yếu tố văn hoá, lịch sử, Du lịch Việt Nam có nhiều thuận lợi để phát triển thị trường đầy tiềm năng này.
Tuy vậy, trong thời gian qua, tốc độ tăng trưởng của số khách du lịch Pháp đến Việt Nam chưa cao và đang có xu hướng chậm lại so với tốc độ tăng trưởng chung của Ngành. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác, những yếu kém trong công tác xúc tiến của Du lịch Việt Nam thời gian qua đã khiến cho việc khai thác thị trường này chưa tương xứng với tiềm năng vốn có.
Nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác xúc tiến quảng bá, thời gian qua, công tác xúc tiến của Du lịch Việt Nam đã được quan tâm hơn. Cục Xúc tiến Du lịch được thành lập theo Quyết định số 391/QĐ-TCDL ngày 28/10/2003 của Tổng cục Du lịch là cơ quan có chức năng tham mưu giúp Tổng cục trưởng thực hiện quản lý nhà nước về xúc tiến du lịch trên lãnh thổ Việt Nam và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến du lịch ở trong và ngoài nước. Tại 64 tỉnh thành trong cả nước cũng đã thành lập các đơn vị làm xúc tiến du lịch. Các doanh nghiệp lữ hành quốc tế, khách sạn cao cấp, khu nghỉ dưỡng hiện nay đều có bộ phận marketing làm xúc tiến, quảng bá cho các sản phẩm của doanh nghiệp, góp phần vào công tác quảng bá hình ảnh đất nước, con người, Du lịch Việt Nam ra nước ngoài, tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Bên cạnh nỗ lực của Ngành Du lịch, các bộ, ngành, tổ
chức như Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại (cũ), Bộ Văn hóa - Thông tin (cũ), Bộ Công An, Hàng không Việt Nam... cũng góp phần tích cực vào việc phối hợp triển khai các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Việt Nam ở trong và ngoài nước nói chung cũng như tại thị trường Pháp nói riêng.
Với mục tiêu tăng cường hợp tác toàn diện về du lịch giữa hai nước, tuyên truyền quảng bá về đất nước, văn hoá và con người Việt Nam đến thị trường Pháp; nhằm duy trì và đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng lượng khách du lịch Pháp đến Việt Nam một cách bền vững và thông qua các hoạt động xúc tiến tại thị trường Pháp dần nâng cao sức hấp dẫn của du lịch Việt Nam đối với thị trường khách du lịch châu Âu, thời gian qua Du lịch Việt Nam đã triển khai khá nhiều hoạt động xúc tiến tại Pháp. Tiêu biểu cho những nỗ lực này có thể kể đến việc tham gia và tổ chức các hoạt động tại Pháp của Du lịch Việt Nam như hội chợ Salon Mondial Du Tourisme, hội chợ Bressuire, Ngày Việt Nam tại Pháp tổ chức ở Lyon và Nice, sự kiện Việt Nam - Hoài niệm, hội chợ Top Resa, sự kiện Hội báo Nhân đạo. Bên cạnh đó Du lịch Việt Nam còn tổ chức những hoạt động xúc tiến khác như đón các đoàn Fam trip, Press trip…
Nhờ thế các hoạt động xúc tiến của Du lịch Việt Nam thời gian qua đã thu được những kết quả nhất định: Hình ảnh Việt Nam và Du lịch Việt Nam đã được quảng bá rộng rãi đến người dân Pháp, góp phần vào sự tăng trưởng lượng khách Pháp đến Việt Nam, tăng sức hấp dẫn của du lịch Việt Nam và thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực du lịch cũng như góp phần vào việc thúc đẩy quan hệ hợp tác chính trị - kinh tế - văn hoá giữa hai nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc triển khai các hoạt động quảng bá xúc tiến của Du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp cũng bộc lộ những hạn chế: Bộ máy triển khai công tác xúc tiến du lịch chưa đồng
bộ, hoạt động xúc tiến còn manh mún, dàn trải, chưa đạt hiệu quả cao, việc tham dự và tổ chức các sự kiện chưa thực sự chuyên nghiệp và chưa tạo được ấn tượng sâu đậm trong lòng du khách, quy mô gian hàng nhỏ, trang trí còn đơn điệu, trùng lặp, thiếu điểm nhấn, các sản phẩm xúc tiến du lịch (ấn phẩm, vật phẩm, băng đĩa...) còn quá đơn giản, số lượng ít, chất lượng chưa cao, chưa huy động được nhiều nguồn lực cho hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch.
Để thực hiện mục tiêu củng cố và mở rộng thị trường du lịch Pháp, thời gian tới, Du lịch Việt Nam phải tăng cường các hoạt động xúc tiến của minh tại thị trường Pháp theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả hơn và chú trọng tới tính đặc thù của thị trường này. Để làm được điều này không chỉ có nỗ lực của Ngành Du lịch mà cả các ngành khác có liên quan. Trong các giải pháp nhằm đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến du lịch tại thị trường Pháp thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác xúc tiến quảng bá du lịch, mở Văn phòng đại diện của Du lịch Việt Nam tại Pháp, tăng cường phối hợp giữa các bộ ngành, nâng cao chất lượng các sản phẩm du lịch và sản phẩm quảng bá du lịch giữ vai trò then chốt, quyết định hiệu quả của các hoạt động này.
Do đây là một nghiên cứu ban đầu về hoạt động xúc tiến của Du lịch Việt Nam tại thị trường Pháp cùng với những hạn chế của bản thân nên Luận văn còn có những khiếm khuyết. Việc chỉ nghiên cứu định lượng các kết quả của hoạt động xúc tiến của Du lịch Việt Nam trên thị trường Pháp trong lãnh thổ Việt Nam (miền Bắc Việt Nam), trong một thời gian ngắn (1 năm) đã làm cho các kết quả nghiên cứu không thể đưa ra các kết luận chi tiết. Đồng thời việc nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát các hoạt động của ngành du lịch mà chưa thể phân tích toàn bộ các hoạt động xúc tiến hình ảnh Việt Nam tại Pháp của các bộ ngành khác.
Mong muốn của Luận văn là góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả các hoạt động xúc tiến Du lịch Việt Nam tại Pháp, tăng cường thu hút khách quốc tế vào Việt Nam du lịch. Trong quá trình làm luận văn không khỏi có những khiếm khuyết, hạn chế. Em mong các Thầy, Cô giáo thông cảm và đóng góp ý kiến để Luận văn thiết thực hơn trong thực tiễn hoạt động Du lịch của Việt Nam. Nhân đây em cũng xin chân thành cám ơn các Thầy, Cô trong Khoa Du lịch học, các Thầy, Cô trong Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, đặc biệt là Thầy giáo, Tiến sỹ Nguyễn Văn Lưu đã nhiệt tình giúp đỡ để em hoàn thành Luận văn này.