Chi) “Nguyễn Khuyến và giai thoại” (Bùi Văn Cường sưu tầm, biên soạn); “Nguyễn Khuyến tác phẩm” (Nguyễn Văn Huyền)...
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp thống kê phân loại
- Phương pháp liên ngành
- Phương pháp so sánh
Trong quá trình triển khai khoá luận, người viết không tuyệt đối hoá phương pháp nào, lúc cần thiết có thể sử dụng tổng hợp cả ba phương pháp trên.
6. Bố cục khoá luận
A. Phần mở đầu
B. Phần nội dung
Có thể bạn quan tâm!
- Nỗi buồn đau trong thơ làng quê Việt Nam của Nguyễn Khuyến - 1
- Thơ Làng Quê Của Nguyễn Khuyến – Ám Ảnh Đau Buồn, Thê Lương
- Cảnh Xác Xơ, Hiểm Hoạ Vì Lũ Lụt Hạn Hán
- Nỗi buồn đau trong thơ làng quê Việt Nam của Nguyễn Khuyến - 5
- Nỗi buồn đau trong thơ làng quê Việt Nam của Nguyễn Khuyến - 6
Xem toàn bộ 53 trang tài liệu này.
Chương 1: Nguyễn Khuyến và sự gắn bó với làng quê
Chương 2: Thơ làng quê của Nguyễn Khuyến – ám ảnh đau buồn, thê lương
C. Phần kết luận
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. NGUYỄN KHUYẾN VÀ SỰ GẮN BÓ VỚI LÀNG QUÊ
1.1. Bối cảnh thời đại
Tam nguyên Yên Đổ là một trong những nhà Nho lớn, đại quan cuối cùng của triều Tự Đức. Đó cũng là lúc Nho giáo ở Việt Nam đã tàn lụi. Nguyễn Khuyến sống trọn đời trong hoàn cảnh tăm tối khổ đau nhất của lịch sử. Ông là một trong những đại diện tiêu biểu cuối cùng của văn học Việt Nam, tận mắt trông thấy bi kịch lịch sử của triều đình nhà Nguyễn và sự phát triển hết sức mạnh mẽ của các phong trào yêu nước chống lại gót giầy ngoại xâm. Chính vì thế, ông cũng là người nhận thấy một cách đau xót nhất sự tàn lụi của hệ tư tưởng Nho giáo lỗi thời cũng như sự bất lực đến hài hước của một loại hình trí thức đại diện cho hệ tư tưởng lỗi thời ấy trước thực tế lịch sử. Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa thời loạn lạc, cơ đồ nhà Nguyễn như sụp đổ hoàn toàn chính vì vậy bao ước mơ khát vọng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân ông không thể thực hiện được.
Trong khi Nguyễn Khuyến còn đang dùi mài kinh sử thì năm 1858 quân Pháp đã nổ phát súng xâm lược đầu tiên vào bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), tiếp theo chúng quay sang đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (1862) rồi chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ (1867). Sau đó, chúng đánh ra miền Bắc và lần lượt đánh ở Hà Nội (1882), đánh kinh thành Huế (1885).
Đứng trước thực tế lịch sử đó, triều đình nhà Nguyễn đứng đầu là Tự Đức đã không lãnh đạo nhân dân đứng lên chống xâm lược bảo vệ chủ quyền dân tộc mà thay vào đó là sự bất lực của vua tôi nhà Nguyễn. Chúng lần lượt đầu hàng giặc, lần lượt kí các hiệp ước trao đổi đất đai về tay giặc Pháp. Năm 1862 kí hiệp ước nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, năm 1867 kí hiệp ước nhường ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, đến 1883 hiệp ước Hasmard được kí kết và đến năm
1884 kí hiệp ước Panternot nhường cả nước cho giặc. Sau ba mươi năm lấn chiếm của thực dân Pháp, Việt Nam đã hoàn toàn rơi vào tay giặc. Trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Khuyến đã bước vào con đường hoạn lộ, con đường duy nhất đối với một trí thức phong kiến muốn lập thân, muốn đem sở học ra phò đời giúp nước.
Triều đình Huế để mất nước, can tâm làm tay sai cho giặc nhưng nhân dân Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm rất oanh liệt thì không bao giờ chịu khuất phục. Họ quyết vùng lên đấu tranh để giành lại chủ quyền cho đất nước. Vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, đứng về phía nhân dân lãnh đạo nhân dân tổ chức kháng chiến kiến quốc. Nhiều sĩ phu yêu nước có đủ dũng khí lãnh đạo cách mạng đã tổ chức nhân dân kháng chiến như Trương Định, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Xuân Ôn... Một số trí thức khác tuy không trực tiếp cầm súng tham gia các phong trào kháng chiến nhưng họ cũng kiên quyết không hợp tác với giặc. Trước cảnh nước mất nhà tan họ cảm thấy xót xa tủi nhục, băn khoăn trăn trở vì vận nước lâm nguy. Họ muốn cứu dân cứu nước nhưng lại chưa đủ dũng khí nên một bộ phận đã phải tìm về lánh ẩn, giữ trọn khí tiết nơi thôn dã thiên nhiên. Nguyễn Khuyến chính là tiêu biểu cho số trí thức này. Ông chưa đủ dũng khí hoà vào cuộc chiến đấu nhưng ông cũng không can tâm chứng kiến sự thối nát của triều đình nên đã chọn cho mình một con đường là cáo quan về ở ẩn. Đây có thể là một hạn chế của Nguyễn Khuyến nhưng hạn chế này cũng dễ hiểu. Bởi Nguyễn Khuyến là một nhà nho, dưới thời phong kiến nhà Nguyễn đã từng ba lần đậu đầu, từng được Tự Đức ban cho cờ biển như thế có nghĩa ông là một nhà nho chính thống. Dưới thời nhà Nguyễn thì Nho giáo độc tôn, các vua nhà Nguyễn luôn có ý thức dùng Nho giáo làm vũ khí tinh thần để củng cố triều đại của mình. Suốt gần 30 năm lặn lội nơi cửa Khổng sân Trình, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng trong ông rất sâu nặng. Vì vậy, với Nguyễn Khuyến chắc chắn không
có một quan niệm nào khác là trung quân, thờ vua giúp nước. Có lý tưởng nhưng vì lịch sử, không đủ dũng khí mà ông đã phải chọn cách lui về ở ẩn nơi quê nhà. Và cũng chính trong hoàn cảnh lịch sử ấy, Nguyễn Khuyến đã thể hiện tài năng của mình và thành công trên cả hai phương diện: tài học và tài văn thơ, cả hai đều xuất sắc, cả hai tài năng đều để lại cho đời những giá trị to lớn. Vì thế từ trước đến nay cho đến cả mai sau, Nguyễn Khuyến luôn được coi là một trong những tác gia lớn của nền văn học dân tộc.
Có thể thấy, Nguyễn Khuyến sống và chứng kiến bi kịch nước mất nhà tan, xã hội đầy rẫy những điều bất đạo, ông đã phản ánh nó rất chân thực trong tác phẩm của mình. Bối cảnh lịch sử có ảnh hưởng không nhỏ đến các sáng tác của ông.
1.2. Tiểu sử và con người
Từ một thế kỉ nay, đa số các tài liệu đều ghi chép tên nhà thơ là Nguyễn Khuyến. Nhưng nhân dân thường gọi theo cách tôn trọng, kiêng huý là Tam nguyên Yên Đổ hoặc Hoàng Và, do ghép học vị Tam nguyên – Hoàng giáp, với tên làng xã quê hương ông, làng Và (tên chữ là Vị Hạ), xã Yên Đổ, huyện Bình Lục (nay thuộc xã Trung Lương, huyên Bình Lục, tỉnh Hà Nam Ninh).
Nguyễn Khuyến sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, nhưng ông chủ yếu lớn lên tại quê cha làng Yên Đổ - Bình Lục – Hà Nam.
Nhà thơ nguyên có tên là Thắng, hiệu Quế Sơn (một ngọn núi cao đẹp trong huyện), khi thi cử thành đạt mới đổi tên thành Nguyễn Khuyến, tự Miễn Chi (nghĩa là Gắng lên, do chữ Khuyến mà ra).
Nguyễn Khuyến sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống học hành. Bên nội quê gốc ở Can Lộc – Hà Tĩnh, di cư ra Yên Đổ cho đến đời nhà thơ đã được năm trăm năm. Ông nội là Nguyễn Tông Tích đỗ nho sinh, cha là Nguyễn Liễn đỗ liền ba khoá tú tài, chuyên nghề dạy học. Mẹ là Trần
Thị Thoan (1799-1874) – con ông Trần Công Trạc đã đỗ sinh đồ thời Lê Mạt. Trong cuốn Nguyễn Khuyến tác phẩm (Nguyễn Văn Huyền xuất bản năm 2002), theo lời nhà thơ kể lại trong Gia phả thì: mẹ ông là một bậc nữ lưu mẫu mực trong xã hội cũ “tính tình đoan trang, trầm tĩnh, thuận hoà” lại rất mực thương người, mọi việc nữ công gia chánh đều thông thạo. Cả một đời bà chịu thương chịu khó, phụng dưỡng bố mẹ chồng, chăm chỉ làm lụng, có lúc phải bán cả tư trang, may thuê vá mướn kiếm sống để khuyến khích nuôi chồng con ăn học.
Thửa hưởng truyền thống của gia đình, từ bé Nguyễn Khuyến đã nổi tiếng là người ham học hỏi, thông minh tài giỏi hơn người.
Năm 17 tuổi, ông đi thi Hương với cha nhưng không đỗ, ba khoa thi Hương tiếp theo 1855, 1858, 1861 ông cũng đều thi trượt. Đã có thời gian anh khoá Thắng nản đường thi cử định chuyển nghề dạy học để trang trải cuộc sống, đỡ đần vợ chăm lo gia đình. Nhưng may mắn, ông đã được một người bạn tên là Vũ Văn Báo nhận chu cấp lương ăn và khuyên đến học với cha của mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ - huyện Nam Xang (Lý Nhân – Hà Nam ngày nay). Bà mẹ ông cũng ân cần, nghiêm khắc khuyên con chớ thoái lui. Do vậy, khoa thi năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu kì thi Hương. Sau đó ông vào thi Hội các khoa thi năm 1865, 1868 nhưng không đỗ. Cho đến năm 1871 mới liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình khi đó ông 37 tuổi. Như vậy, cả ba kì thi ông đều đỗ đầu nên được cờ biển vua ban và tên Tam nguyên Yên Đổ xuất hiện từ đó. Triều đại nhà Nguyễn cho đến thời Nguyễn Khuyến chỉ có hai người đỗ tam nguyên thì Nguyễn Khuyến là một, còn người thứ hai là Trần Bích San (Vị Xuyên – Nam Định). Do vậy, thành tích đó đối với Nguyễn Khuyến là sự cố gắng phi thường.
Sau khi thi đỗ, Nguyễn Khuyến được bổ nhiệm làm quan ở nội các Huế, năm sau đổi ra làm đốc học Thanh Hoá, rồi Án sát Nghệ An nhưng được mấy
tháng thì mẹ ông qua đời, ông xin về quê chịu tang mẹ ba năm. Mãn tang ông vào kinh tiếp tục làm quan và giữ nhiều các chức vụ khác nhau: Biện lí bộ Hộ, Bố chánh Quảng Ngãi, Trực học sĩ, Phó sư...Cuối năm 1883 ông được giữ chức quyền tổng đốc Sơn Tây – Hưng Yên – Tuyên Quang nhưng chính lúc này ông viện cớ đau mắt nặng cáo quan về làng, khi ấy ông mới 50 tuổi (1884).
Quyết định cáo quan về làng là quyết định có ý nghĩa quan trọng tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc đời ông. Hành động ấy thể hiện tinh thần yêu nước, bộc lộ nhân phẩm đáng trân trọng của Nguyễn Khuyến. Khi ông kiên quyết không màng đến danh lợi mà lúc đó thực chất là làm tay sai cho giặc. Đây cũng chính là khoảng thời gian giúp ông có điều kiện hoà mình với cuộc sống cơ khổ và thân phận mất nước của bà con làng xóm quê hương.
Ngày 5 tháng 02 năm 1909 (tức ngày 15 tháng Giêng năm Kỉ Dậu) Nguyễn Khuyến đã trút hơi thở cuối cùng, thọ 75 tuổi.
Như vậy, Nguyễn Khuyến đã làm quan trong khoảng 13 năm (trong đó có ba năm về chịu tang mẹ), còn phần lớn cuộc đời ông gắn bó với làng quê chiêm trũng Bình Lục. Do đó, Nguyễn Khuyến rất am hiểu cuộc sống nông thôn, ông gắn bó với người nông dân, với quê hương như máu thịt. Đó chính là nguyên nhân quan trọng đưa nhà thơ đến thành công đặc biệt khi viết về nông thôn.
1.3 Sự gắn bó với làng quê của Nguyễn Khuyến
Mùa thu năm 1884, Nguyễn Khuyến trở về vườn Bùi để tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn, để tạm quên đi những điều day dứt trong lòng. Năm 1852, ông lấy vợ và đi thi Hương lần đầu tiên cùng với cha nhưng không đỗ. Năm kế tiếp, trong địa phương bỗng xuất hiện dịch thương hàn, anh khoá Thắng mắc bệnh suýt chết. Cha và em ruột cùng nhiều họ hàng thân thuộc cũng qua đời trong cơn đại dịch kinh hoàng ấy. Gia đình anh khoá Thắng càng lâm vào cảnh xác xơ, tiêu điều đói rét. Từ năm 1854, anh phải tiếp tục theo nghề cha đi dạy học ở nhiều nơi để trang trải học phí và cuộc sống, lần lượt ở Lạng Phong
(huyện Nho Quan), Kỷ Cầu (huyện Thanh Liêm)..., vừa lần lượt học các ông Giáo thụ Nho quan là Phạm Mỹ, Đốc học cử nhân Trần Duy Vỹ ở xã Vũ Bản, được Vũ Văn Báo giúp đỡ cho chỗ ăn ở và khuyên đến học với cha mình là Tiến sĩ Vũ Văn Lý ở xã Vĩnh Trụ huyện Nam Xang. Mãi đến năm 1871, ông liên tiếp đỗ đầu thi Hội, thi Đình. Như vậy, trước khi đỗ đạt làm quan năm 1871 Nguyễn Khuyến đã có 17 năm gắn bó với quê nhà và gần 20 năm lênh đênh đây đó vừa dạy học kiếm sống vừa tìm thầy học cho mình.
Sau 13 năm làm quan (trừ ba năm về quê chịu tang mẹ), mùa thu năm 1884, ông trở về quê Yên Đổ khi mới 50 tuổi và gắn bó với nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình cho đến khi trút hơi thở cuối cùng là lúc 75 tuổi.
Như vậy, trừ thời gian làm quan và lên Hà Nội dạy học, ông đã sống ở quê nhà hơn 40 năm. Do đó, ông am hiểu từ bụi tre, bờ ao, ruộng đồng, vườn tược, đến làng xóm, dân tình, phong tục. Tuy Nguyễn Khuyến không trực tiếp làm ruộng, trong cuốn “Tuyển chọn và trích dẫn những bài phê bình – bình luận văn học của các nhà văn – nghiên cứu Việt Nam – thế giới” tác giả Chu Văn có viết “Người ta thì cày cuốc, cưa đục, đan lát, be tát, chài lưới. Tối tối, nhà đó có đồng tiền bát gạo. Ông già Tam dài lưng tốn vải, chẳng biết cấy cày, nề mộc gì, có mỗi một cây bút vốn liếng, và ít chữ để bụng.” [3,15-16] nhưng nhờ gắn bó với người dân thôn quê nên ông hiểu rất rò về cuộc sống của họ. Bởi vậy ông mới có những vần thơ rất Việt Nam:
“Năm gian nhà cỏ thấp le te, Ngò tối đêm sâu đóm lập loè.”
Nhắc đến Nguyễn Khuyến là ta nhớ ngay đến những vẫn thơ thu đặc sắc. Nguyễn Khuyến trở thành thi sĩ của mùa thu với ba bài thơ bất hủ: Thu điếu, Thu ẩm,Thu vịnh. Tuy rằng trước kia cũng có những bài thơ tả cảnh thu nhưng có vẻ như thi liệu trong đó còn được vay mượn nhiều từ Trung Hoa và đầy khuôn sáo:
“Lác đác ngô đồng mấy lá bay, Tin thu heo hắt lọt hơi may.”
(Hồng Đức quốc âm thi tập)
So với thơ của Nguyễn Khuyến, có phần chưa đặc sắc bằng:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo, Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo. Sóng biếc theo làn hơi gợn tí, Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.”
(Thu điếu)
Ngay cả khi tả một ngôi chùa cũ kĩ cùng với một nhà sư đơn độc, ông cũng sử dụng những hình ảnh thật đẹp:
“Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá, Sư cụ nằm chung với khói mây.”
(Nhớ núi Đọi - II) Nhưng đây là hình ảnh “sương khói” rất hiếm khi ta bắt gặp trong thơ Nguyễn Khuyến, đa số là những hình ảnh quen thuộc, chất phác, gắn liền với chân quê như: con trâu, con gà, ngò trúc, đường làng, khúc sông, bãi chợ, vườn
cà, cây cải, ao cá, bờ tre:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt, Ngò trúc quanh co khách vắng teo.”
(Thu điếu)
Tuy nhiên, điều khiến cho Nguyễn Khuyến thực sự trở thành nhà thơ của làng quê Việt Nam không chỉ dừng lại ở những vần thơ tả cảnh mà còn là tình cảm chân thành của ông đối với những người nông dân lầm than cơ cực. Ông thực sự thông cảm với đời sống cực nhọc của nhân dân phải “một nắng hai sương” lại thêm cảnh thiên tai hoành hành khiến đê vỡ lụt lội, nghèo túng làm ăn thất bát, nợ nần “lãi mẹ đẻ lãi con”. Có thể nói rằng: với Nguyễn Khuyến