hàng phát hành có thể do sự vi phạm nghĩa vụ của ngân hàng với một số trường hợp điển hình sau:
a. Tranh chấp khi ngân hàng phát hành không phát hiện hết sai sót của bộchứng từ
Điều 14 UCP 600 Tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ: “a. Ngân hàng chỉ định hành động theo sự chỉ định, nếu có và ngân hàng phát hành phải kiểm tra việc xuất trình, chỉ trên cơ sở của chứng từ để quyết định chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng có tạo thành một xuất trình phù hợp hay không” nhưng UCP 600 không nêu cụ thể thế nào là sự phù hợp trên bề mặt của chứng từ vì thế ngân hàng phát hành sẽ căn cứ vào L/C, các tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ trong ISBP 681 ICC 2007 để kiểm tra. Theo đó, sau khi kiểm tra chứng từ nếu không phát hiện có sai sót thì ngân hàng sẽ phải thanh toán hoặc thương lượng thanh toán cho người xuất trình, rồi sau đó sẽ gửi bộ chứng từ đến người yêu cầu để đòi tiền, ngược lại nếu có sai sót thì sẽ gửi Giấy báo sai biệt chứng từ cho người yêu cầu và yêu cầu người này trả lời chấp nhận hay từ chối thanh toán trong một khoảng thời gian nhất định (thường là 2 ngày). Thực tế nếu người nhập khẩu đồng ý thanh toán thì sẽ gửi cho ngân hàng một giấy cam kết thanh toán bộ chứng từ để ngân hàng thanh toán hoặc thương lượng thanh toán cho người xuất trình. Tranh chấp thường phát sinh khi ngân hàng phát hành do không cẩn thận đã không phát hiện ra sai sót của bộ chứng từ hoặc phát hiện không hết sai sót khiến người yêu cầu đưa ra các chỉ thị sai lầm. Hậu quả là nếu sai sót bị bỏ qua là nghiêm trọng thì sau này, người nhập khẩu có thể không nhận được hàng hoặc nhận phải hàng kém chất lượng sẽ có thể kiện ngân hàng vì sự thiếu sót đó.
b. Tranh chấp xảy ra khi ngân hàng phát hành từ chối thanh toán bộ chứng từhợp lệ
Khi nhận thấy việc nhập hàng hóa có thể bị lỗ do giá cả trên thị trường đang giảm, người nhập khẩu không muốn nhận hàng và cố tìm kiếm sai sót
của bộ chứng từ để từ chối nhận hàng. Ngân hàng phát hành vì chiều ý khách hàng nên vội vàng bắt lỗi bộ chứng từ hoặc do sự hiểu biết về UCP 600 còn hạn chế nên bắt lỗi bộ chứng từ không đúng tinh thần của UCP 600. Loại tranh chấp này rất hay gặp trong thực tế nhất là với tình hình giá cả hàng hóa trên thế giới biến động khó lường, các công ty không có khả năng dự đoán chính xác được xu thế biến động giá cả nên khi thấy bị lỗ đã tìm cách thoái thác việc nhận hàng.
Những sai sót mà ngân hàng phát hành hay nhầm lẫn thường liên quan tới lỗi chính tả, hoặc điều kiện phi chứng từ…Sai sót liên quan tới điều kiện phi chứng từ chẳng hạn như có sự mâu thuẫn giữa dữ liệu trong chứng từ mà thư tín dụng yêu cầu với chứng từ mà thư tín dụng không yêu cầu xuất trình nhưng ngân hàng lại căn cứ vào đó để bắt lỗi bộ chứng từ. Cũng theo Điều 14 UCP 600 thì do không có nghĩa vụ kiểm tra các chứng từ không yêu cầu xuất trình trong L/C nên ngân hàng không nhận biết được có sự mâu thuẫn dữ liệu giữa các chứng từ yêu cầu xuất trình và chứng từ không được yêu cầu, do đó không được căn cứ vào đó để bắt lỗi bộ chứng từ. Đôi khi những quy định mập mờ của L/C cũng có thể dẫn tới tranh chấp.
c. Tranh chấp xảy ra khi ngân hàng phát hành vi phạm thời hạn kiểm tra bộchứng từ.
Về thời hạn kiểm tra chứng từ xuất trình theo UCP 600 đã có một số thay đổi so với UCP 500. Một là, thời gian kiểm tra chứng từ ngắn hơn chỉ còn 5 ngày làm việc ngân hàng thay vì 7 ngày như trước kia. Hai là, mốc thời gian để bắt đầu tính thời hạn kiểm tra là kể từ ngày kế tiếp của ngày xuất trình thay vì ngày kế tiếp của ngày nhận chứng từ quy định như trước. Ba là, UCP 600 bỏ câu “Có một thời gian hợp lý” để kiểm tra chứng từ. Trên thực tế vì lý do chủ quan hoặc khách quan mà ngân hàng phát hành có thể vi phạm thời hạn này và mất quyền từ chối bộ chứng từ. Chẳng hạn như khi phát hiện sai
sót trong bộ chứng từ, vì chờ đợi chỉ thị từ người yêu cầu mà ngân hàng không thông báo cho người thụ hưởng rằng mình chấp nhận hoặc từ chối thanh toán. Như vậy, tranh chấp có thể xảy ra và giải quyết theo UCP 600 thì rủi ro thuộc về phía ngân hàng.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Và Sự Cần Thiết Ra Đời Của Ucp 600 Và Isbp 681 Icc
- Các Bên Trong Giao Dịch Thương Mại Có Yếu Tố Nước Ngoài Được Thoả Thuận Áp Dụng Pháp Luật Nước Ngoài, Tập Quán Thương Mại Quốc Tế Nếu Pháp Luật
- Tình Hình Thanh Toán L/c Xuất Khẩu Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam 6
- Nguyên Nhân Xuất Phát Từ Người Xuất Khẩu Và Người Nhập Khẩu.
- Định Hướng Hoàn Thiện Hoạt Động Ttqt Bằng L/c Và Một Số
- Áp dụng UCP 600 và ISBP 681 ICC tại Việt Nam: thực trạng và giải pháp - 10
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
d. Tranh chấp khi ngân hàng phát hành không cầm giữ chứng từ chờ định đoạtcủa người xuất trình
Điều 16 UCP 600 quy định rất rõ trách nhiệm của ngân hàng phát hành đối với bộ chứng từ có sai sót là phải thông báo rõ ràng tình trạng của bộ chứng từ không phù hợp hoặc là cầm giữ chứng từ chờ chỉ thị của người xuất trình, người yêu cầu, hoặc là sẽ gửi trả lại cho người xuất trình. Trong trường hợp ngân hàng chỉ thông báo từ chối bộ chứng từ mà không thông báo mình sẽ cầm giữ bộ chứng từ chờ sự định đoạt của người xuất trình, giao lại cho người yêu cầu hay trả lại bộ chứng từ thì tranh chấp sẽ xảy ra khi người xuất trình lợi dụng sơ hở của ngân hàng, chờ tới khi hết thời hạn kiểm tra chứng từ khởi kiện ngân hàng vì đã không thanh toán trong khi vẫn cầm giữ bộ chứng từ hoặc giao cho người nhập khẩu mà không thông báo cho người xuất trình là vi phạm điều 16f UCP 600. Tranh chấp cũng có thể xảy ra do có sự khác nhau trong quy định của UCP 600 và UCP 500. Về vấn đề này, UCP 500 không cho phép ngân hàng phát hành khi đã thông báo từ chối rồi chuyển bộ chứng từ cho người yêu cầu nếu không có sự đồng ý của người thụ hưởng. Còn UCP 600 lại cho phép nhưng với điều kiện người yêu cầu và ngân hàng phát hành đồng ý bỏ qua sai biệt. Rõ ràng nếu không tìm hiểu kỹ của UCP 600 thì tranh chấp sẽ xảy ra.
e. Tranh chấp khi ngân hàng thông báo vi phạm nghĩa vụ.
Điều 9 UCP 600 quy định trách nhiệm nhiệm của ngân hàng thông báo là phản ánh chính xác các điều kiện, điều khoản của L/C gốc. Nhận được ủy thác của L/C, khi nhận thư tín dụng hoặc thư tín dụng sửa đổi, ngân hàng
thông báo phải kiểm tra tính chân thật bề ngoài của thư tín dụng hoặc yêu cầu sửa đổi thư tín dụng. Nếu thỏa mãn yêu cầu kiểm tra thì mới thông báo cho người thụ hưởng, ngược lại ngân hàng thông báo có quyền từ chối thông báo. Khi từ chối phải thông báo không chậm trễ cho ngân hàng phát hành.
Nhưng một bất cập của UCP 600 và ISBP 681 là không có điều khoản nào giải thích khái niệm tính chân thật bề ngoài của L/C khiến người ta có thể hiểu điều đó do ngân hàng thông báo tự quyết định theo yêu cầu của nghiệp vụ đại lý đã được quy định trong hợp đồng đại lý với ngân hàng phát hành. Ví dụ như, thư tín dụng phát hành bằng Telex không có mã test, hoặc có nhưng sai với mã test đăng ký là thiếu tính chân thực bề ngoài.
Trong phương thức tín dụng chứng từ mờ L/C đúng thời hạn là nghĩa vụ của người nhập khẩu nên việc ngân hàng thông báo từ chối một thư tín dụng đã được phát hành với lý do thư tín dụng đó không thỏa mãn được tính chất thật bề ngoài có thể có quan hệ logic với việc không thực hiện nghĩa vụ của người nhập khẩu. Vì tính của vấn đề này, nên UCP 600 còn quy định thêm về trách nhiệm của ngân hàng thông báo khi từ chối thông báo thư tín dụng. “ngân hàng thông báo phải thông báo cho người thụ hưởng thư tín dụng biết rằng tụ nó kho kiểm tra thư tín dụng đã không thỏa mãn được tính chân thực bề goài của thư tín dụng hoặc yêu cầu sửa đổi thư tín dụng” - Điều 9f UCP 600. Nếu ngân hàng thông báo không thận trọng trong vấn đề này thì rất dễ xảy ra tranh chấp. Liên quan đến ngân hàng thông báo, loại tranh chấp thường do ngân hàng không làm đùng trách nhiệm của mình như thông báo một thư tín dụng thiếu tính chân thật bề ngoài hay không thông báo cho người thụ hưởng về sự từ chối thông báo thư tín dụng của mình. Sai sót cũng có thể xảy ra do trong quá trình truyền dữ liệu từ ngân hàng phát hành tới ngân hàng thông báo nhưng theo điều 35 UCP 600 thì cả hai ngân hàng đều được miễn trách với lỗi này nên tranh chấp tất yếu sẽ xảy ra.
2.2.2 Các nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp trong hoạt động TTQT bằng L/C tại Việt Nam
2.2.2.1 Nguyên nhân khách quan từ bản thân UCP 600 và ISBP 681
So với UCP 500 rõ ràng UCP 600 đã hạn chế được một số những bất cập nhất định. Tuy nhiên, dù trên cơ sở lý luận hay thực tiễn thì bản thân UCP 600 cũng tồn tại những điểm hạn chế không thể tránh khỏi và là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn tới các tranh chấp trong hoạt động TTQT bằng L/C tại Việt Nam
+ Điều 7 (b) UCP 600 chỉ ra thời điểm cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành có hiệu lực là từ thời điểm ngân hàng phát hành thư tín dụng nhưng lại chưa định nghĩa thế nào là thời điểm phát hành tín dụng và thời điểm nào được coi là tín dụng đã phát đi do đó các bên hoặc là dựa vào ngày phát hành ghi trong nội dung thư tín dụng hoặc là dựa vào ngày phát bức điện MT 700…Việc vận dụng quá nhiều cách hiểu cho một khái niệm tất yếu sẽ làm phát sinh tranh chấp khi mỗi bên hiểu theo một kiểu và ai cũng có cái lý của mình vì UCP 600 hoàn toàn không đề cập tới vấn đề này.
+ Điều khoản về tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ
Điều 14 (d) UCP 600: “Dữ liệu trong một chứng từ không nhất thiết phải giống hệt như dữ liệu của tín dụng, của bản thân của chứng từ và của thực tiễn ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế, nhưng không được mâu thuẫn với dữ liệu trong chứng từ đó, với bất cứ chứng từ quy định khác hoặc với tín dụng”. Quy định này thật sự rất mơ hồ và khó hiểu để xác định xem các chứng từ có mâu thuẫn hay không và nhiều khi việc quyết định đó lại dựa trên sự nhạy cảm của người kiểm tra chứng từ. Ví dụ một trường hợp ngân hàng phát hành bắt lỗi trong trường điện tử 45A SWIFT MT 700 về mô tả hàng hóa của L/C ghi điều kiện giao nhận hàng là FCL/FCL, nhưng trên vận đơn lại ghi là
CY/CY; người xuất khẩu cho rằng FCL/FCL là nhận nguyên công tại cảng đi và giao nguyên công tại cảng đến và CY/CY là nhận tại Bãi container cảng đi giao tại Bãi container cảng đến là hoàn toàn giống nhau, không thể coi là sự khác biệt được trong khi ngân hàng lại giải thích FCL/FCL và CY/CY là khác biệt nhau vì FCL là viết tắt của nhóm từ Full Container Load và CY là viết tắt của nhóm từ Container Yard - hai nhóm từ này hoàn toàn khác nhau, nếu xét theo nguyên tắc kiểm tra bề mặt của các chứng từ quy định trong UCP 600. Như vậy, chính sự mập mờ trong quy định của UCP 600 mà tranh chấp trên thực tế đã xảy ra.
Điều 14 (c) UCP 600: “Việc xuất trình một hoặc nhiều bản gốc các chứng từ vận tải theo các điều 19, 20, 21, 22, 23, 24 và 25 phải do người thụ hưởng hoặc người thay mặt thực hiện không muộn hơn 21 ngày theo lịch sau ngày giao hàng như mô tả trong các quy tắc này, nhưng trong bất cứ trường hợp nào cũng không được muộn hơn ngày hết hạn của tín dụng” nhưng Điều 21 (b) ISBP 681 lại quy định: “Các chứng từ đến chậm có thể chấp nhận” là chứ ng từ xuấ t trì nh sau 21 ngày dương lịch kể từ ngày giao hàng nhưng phải xuấ t trì nh không muộ n hơn ngà y hế t hạ n xuấ t trì nh quy đị nh trong Thư tí n dụng”. Rõ ràng ở đây có sự không tương thích giữa 2 văn bản pháp lý gây khó khăn trong việc kiểm tra tính hợp lý của bộ chứng từ.
+ Chứng từ vận tải đa phương thức
Điều 19 UCP 600 một chứng từ vận tải đa phương thức phải “dùng cho ít nhất hai phương thức vận tải khác nhau”. Song trên thực tế chứng từ vận tải đa phương thức vẫn được áp dụng đối với hành trình chỉ sử dụng phương thức vận chuyển đường bộ. Vậy trong trường hợp đó nó có thuộc đối tượng điều chỉnh của UCP 600 hay không? Đây là một trong những nguyên nhân từ bản thân của UCP 600 làm cho hoạt động TTQT bằng L/C gặp phải những tranh chấp không đáng có nếu có quy định cụ thể.
Tương tự với Vận đơn của người giao nhận, UCP 600 hoàn toàn không có một điều khoản riêng nào cho forwarder B/L vì vậy nếu người xuất khẩu tiến hành gửi hàng cho người giao nhận thì vận đơn của người giao nhận có được ngân hàng chấp nhận không?
2.2.2.2 Nguyên nhân từ phía ngân hàng
Nguyên nhân chủ quan
+ Do ngân hàng hiểu và vận dụng UCP không chính xác
UCP 600 ICC có hiệu lực từ tháng 7/2007 và cho đến nay chưa có nhiều vụ tranh chấp được giải quyết dựa trên UCP 600 nhưng từ những vụ tranh chấp do UCP 500 điều chỉnh trong thực tế có thể thấy được một trong những nguyên nhân là do chính các ngân hàng cũng chưa hiểu cặn kẽ UCP để có sự vận dụng hợp lí. Trong đó bao gồm:
- Do bản chất UCP chỉ là một bộ tập quán quốc tế chứ không phải là một điều luật quốc tế cộng với việc khi phát hành L/C nhiều ngân hàng đã không dẫn chiếu đến UCP làm nguồn luật áp dụng nên khi xảy ra tranh chấp chính các bên lại không thỏa thuận được luật áp dụng nên dẫn tới tranh chấp về nguồn luật áp dụng. Hoặc cũng có thể L/C có dẫn chiếu UCP nhưng do tính chất pháp lý tùy ý nên khi áp dụng vào thực tế quan hệ kinh tế quốc tế thì vẫn phải tôn trọng luật lệ và tập quán của quốc gia nơi diễn ta giao dịch chứ không phải ngược lại. Nếu các bên không hiểu nguyên tắc này sẽ không thể giải quyết được tranh chấp khi có xung đột luật diễn ra giữa UCP và luật quốc gia. Liên quan tới vấn đề dẫn chiếu UCP, nhiều ý kiến cho rằng khi L/C được gửi đi bằng điện thì không cần phải có điều khoản dẫn chiếu UCP trong L/C. Lý do đưa ra là khi các ngân hàng truyền tin qua hệ thống SWIFT – Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng (The society for Worldwide Interbank Fianancial Telecommunication) để phát hành thư tín dụng phải sử dụng mã SWIFT MT đầu 7 được thiết kế tương thích với UCP 600. Nhưng trên thực tế
thì UCP 600 và SWIFT là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau. Chính vì thế mà trong hướng dẫn áp dụng mã MT 700&701 của Ủy ban tài chính thương mại của Hiệp hội SWIFT có ghi: “Trừ khi có quy định khác, Thư tín dụng được phát hành tuân thủ bản UCP đang có hiệu lực vào ngày phát hành. Ngân hàng thông báo phải thông báo cho người thụ hưởng hoặc ngân hàng thông báo khác nếu Thư tín dụng dẫn chiếu đến ICC UCP” - (Unless otherwise specified, the Documentary Credit is issued subject to UCP, ICC, which are in effect on the date of issue. The Advising bank must inform the Beneficiary or another Advising bank when the credit is subject to the ICC UCP).
- Nhiều ngân hàng chưa hiểu đúng những quy định của UCP về các tiêu chuẩn kiểm tra chứng từ, chẳng hạn như cách hiểu đúng thế nào là bộ chứng từ hợp lệ, chứng từ gốc... Chẳng hạn, có ngân hàng hiểu rằng chứng từ gốc phải có kí hiệu “original”. Nhưng UCP 600 thì không cần thiết phải như vậy nên đã nảy sinh tranh chấp khi ngân hàng phát hành từ chối thanh toán bộ chứng từ hợp lệ.
- UCP 600 có nhiều thay đổi so với UCP 500 – một bản quy tắc đã được sử dụng 14 năm trước khi có UCP 600. Do đó nhiều cán bộ ngân hàng đã quen với bộ tập quán cũ và không tìm hiểu kĩ sự thay đổi giữa hai bản quy tắc này nên đôi lúc có sự nhầm lẫn giữa các quy định của hai bộ tập quán dẫn tới sai sót trong quá trình kiểm tra chứng từ cũng như từ chối chứng từ.
+ Do các ngân hàng không làm hết trách nhiệm của mình
Trong số những nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp trong phương thức tín dụng chứng từ không thể không kể đến nguyên nhân đến từ chính những yếu kém trong chức trách làm việc của ngân hàng. Một phần là vì UCP 600 cũng như UCP 500 đều có điều khoản miễn trách cho các ngân hàng. Do đó ngân hàng thường dựa vào điều khoản này để thoái thác trách nhiệm mà lẽ ra họ phải gánh chịu do sơ suất hay bất cẩn của mình. Và cũng vì điều khoản