Thực Tiễn Cải Cách Hệ Thống Ngân Hàng Việt Nam: Những Thành Tựu, Hạn Chế Và Nguyên Nhân


Bài học của Nhật Bản cho thấy, để xử lý tận gốc nợ xấu một cách hiệu quả nhất; để đảm bảo quá trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng thì quá trình này cần phải gắn với quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp đóng vai trò đầu tàu của nền kinh tế. Theo đó, Nhật Bản đã thành lập những cơ quan chuyên biệt tham gia mua nợ xấu của hệ thống tổ chức tài chính, từ đó, trực tiếp tham gia vào quá trình tái thiết, quản trị, từng bước nâng cao chất lượng doanh nghiệp, tạo giá trị thặng dư cho xã hội.

Để tạo cho nền kinh tế và các công ty trở nên năng động và có hiệu quả hơn, đồng thời để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách do phải trợ cấp để bù lỗ cho những công ty thuộc sở hữu Nhà nước, và trước yêu cầu đòi chống độc quyền và bảo hộ của các bạn hàng Âu Mỹ, từ giữa những năm 1990, Chính phủ Nhật Bản đã từng bước tiến hành các biện pháp thu hẹp phạm vi sở hữu và kinh doanh của Nhà nước:

- Có những quy chế nhằm hạn chế sự can thiệp của các chính khách vào hoạt động kinh doanh và quản lý của các doanh nghiệp Nhà nước, hoặc tránh cho các doanh nghiệp đó phải gánh quá nhiều nghĩa vụ ngoài kinh doanh (như các nghĩa vụ chính trị và xã hội).

- Giảm dần các khoản bao cấp và bảo hộ đối với các công ty của chính phủ, yêu cầu các công ty này chuyển dần sang hoạt động theo nguyên tắc thị trường, phải huy động và vay vốn chủ yếu tại các ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán thay vì dựa vào các khoản vay hoặc trợ cấp từ ngân sách.

- Tư nhân hóa hoặc chia nhỏ các công ty độc quyền của Chính phủ, như các Công ty Muối, Công ty Thuốc lá, Công ty Hàng không Nhật Bản (JAL), Công ty Đướng sắt quốc gia, Công ty Điện tín và Điện thoại Nhật Bản (NTT),…

Trong kinh nghiệm cải cách hệ thống ngân hàng đi đôi với tái cấu trúc doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước ở Nhật Bản, chúng ta có thể học hỏi được phương pháp M&A (viết tắt của cụm từ tiếng Anh Mergers and Acquisitions có nghĩa là mua bán và sáp nhập) đã được Nhật Bản sử dụng hiệu quả. Kể từ khi trở thành nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, Nhật Bản với các ngành công nghiệp của mình đã tạo dựng một kết cấu ngành với sự hiện diện của rất nhiều các doanh nghiệp nhỏ và vừa là nền tảng ở dưới, trên đó là các doanh nghiệp trung bình và trên cùng là các doanh nghiệp cỡ lớn. Nước này đã xây dựng mô hình ngành công nghiệp theo hình tháp nhọn với chân hình tháp mở rộng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, có năng lực sản xuất trong nước rất cao, chính các doanh nghiệp này giữ vai trò trung tâm, là cỗ máy lớn đưa Nhật Bản trở thành cường quốc kinh tế. Nhật Bản là quốc gia có nhiều tập đoàn kinh tế đa ngành như Mishubishi, Asahi, Recof … nhưng có kết quả kinh doanh đáng ngưỡng mộ vì các tập đoàn này được hình thành sau một quá trình


TCTDN thông qua M&A. Phương pháp M&A có thể biến đổi các doanh nghiệp yếu, thua lỗ thành những doanh nghiệp có sức cạnh tranh mạnh mẽ, bằng việc kết hợp các điểm mạnh của các doanh nghiệp lại với nhau. Kinh nghiệm M&A của Nhật Bản, có thể rút ra ba bài học cho Việt Nam: (i) Bảo đảm môi trường pháp lý tốt: Ban hành, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản pháp lý giúp cho việc thực hiện M&A tốt nhất. (ii) Lựa chọn hình thức M&A phù hợp với nhu cầu, mục đích và môi trường của doanh nghiệp. (iii) Xây dựng đội ngũ chuyên gia tốt, chuyên nghiệp sẽ giúp M&A đạt kết quả cao.

4.2. Thực tiễn cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam: Những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân

4.2.1. Hệ thống ngân hàng Việt Nam trước yêu cầu cải cách

4.2.1.1. Khái quát về hệ thống ngân hàng Việt Nam

Hệ thống ngân hàng Việt Nam được hình thành và phát triển từ hệ thống ngân hàng một cấp. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được thành lập từ năm 1954, tuy nhiên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1955-1975) và giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa tập trung sau thống nhất đất nước (1975-1986), Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (tên gọi từ năm 1954-1961) và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (tên gọi từ năm 1961 đến nay) chủ yếu đóng vai trò là cơ quan phát hành tiền và hoạt động như một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo thị trường.

Năm 1986, bắt đầu thực hiện đổi mới hệ thống ngân hàng từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, tính đến nay hệ thống ngân hàng Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc cả về quy mô và chất lượng. Cụ thể, kể từ Nghị định 53/NĐ-HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng, hệ thống ngân hàng Việt Nam được tổ chức thành hệ thống ngân hàng 2 cấp bao gồm: Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng thương mại. Pháp lệnh về Ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh về các tổ chức tín dụng do Hội đồng Nhà nước ban hành 23/05/1990 đã tạo những có sở pháp lý đầu tiên cho quá trình hình thành và phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam trong hơn hai thập niên sau đó.

Trong bối cảnh hiện nay thì Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có một số các vai trò như sau [145]: (i) NHNN Việt Nam là ngân hàng phát hành, đây là cơ quan duy nhất được phát hành tiền theo các quy định của luật pháp hoặc được Chính phủ cho phép; (ii) NHNN là ngân hàng của các ngân hàng, NHNN nhận tiền gửi của các NHTM, là trung tâm thanh toán cho các ngân hàng, cung cấp tín dụng cho các NHTM; (iii) NHNN là ngân hàng của Chính phủ: Làm thủ quỹ Kho bạc Nhà nước để ghi chép các khoản thu chi, NHNN có thể tạm ứng cho ngân sách hay làm đại lý và tư vấn cho Chính phủ; (iv) NHNN có chức năng xây dựng và thực thi chinh sách tiền tệ quốc gia nhằm ổn định giá cả, đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế đã đề ra, đảm bảo công ăn việc làm; (v) NHNN thanh tra giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng để đảm bảo sự ổn định của hệ thống, bảo vệ khách hàng của ngân hàng.


Từ những năm đầu của thế kỷ 21, NHNN Việt Nam đã góp phần rất lớn vào sự phát triển kinh tế thông qua việc đưa ra những biện pháp hiệu quả để ngăn chặn và kiểm soát được lạm phát, xây dựng một cấu trúc hạ tầng đa dạng gồm các loại hình sở hữu ngân hàng như sở hữu Nhà nước, cổ phần, hợp tác, liên doanh, công ty tài chính, tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Trong quá trình đó, chính sách tiền tệ cũng đã được cải thiện theo hướng mở và tự do hơn cho các TCTD. Hoạt động của hệ thống ngân hàng vì thế mà có những bước tiến mới về số vốn tự có, các phương tiện thanh toán, dư nợ cho vay nền kinh tế. Trên đường hội nhập NHNN đã mở rộng quan hệ với tất cả bạn bè trên thế giới, học tập các ưu việt của những Ngân hàng trung ương của các nước phát triển trên thế giới, đồng thời đầu tư về đào tạo cho đội ngũ nhân sự.

Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã phát triển nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng, theo hướng thị trường, đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, góp phần ổn định hệ thống tài chính, kinh tế vĩ mô và cải thiện đời sống xã hội. Đặc biệt, với mô hình hệ thống tài chính dựa chủ yếu vào ngân hàng (bank-based financial system), nguồn tín dụng từ các ngân hàng đã trờ thành nguồn lực tài chính chủ yếu trong hầu hết các dự án kinh tế trọng điểm quốc gia, hỗ trợ tích cực cho hoạt động đầu tư, thương mại, sản xuất kinh doanh.

Chỉ với 09 ngân hàng thương mại quốc doanh năm 1991, đến nay (tính đến 30/6/2019), hệ thống các TCTD ở Việt Nam đã có 04 ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN), 31 ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) trong nước, 49 chi nhánh ngân hàng nước ngoài với 50 văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại Việt Nam, 09 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 19 tổ chức tín dụng phi ngân hàng, và nhiều quỹ tín dụng nhân dân. Trong đó hệ thống các ngân hàng thương mại đã có mạng lưới bao phủ đến hầu hết mọi miền trên cả nước. Các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng doanh nghiệp và người dân trong và ngoài nước [145].

4.2.1.2. Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam trước Đề án tái cấu trúc (giai đoạn từ 2008 đến 2011)

Kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008) tác động đến Việt Nam, những thách thức mới từ xu thế toàn cầu hóa cộng với những yếu kém nội tại của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng đã đặt ra yêu cầu cải cách hệ thống ngân hàng một cách toàn diện, vừa đáp ứng những yêu cầu cấp bách trước mắt, vừa nhằm đảm bảo cho hệ thống ngân hàng phát triển một cách an toàn, hiệu quả và bền vững trong trung và dài hạn. Mặc dù đã trải qua một số lần cải cách nhưng cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh kế toàn cầu diễn ra từ năm 2008 đã khiến hệ thống ngân hàng Việt Nam bộc lộ những vấn đề tồn tại và bất cập nghiêm trọng. Cụ thể như sau:

- Ngân hàng nhà nước còn nhiều hạn chế: Về cơ cấu tổ chức và quan hệ phối hợp giữa các đơn vị: Còn cồng kềnh, nhiều tầng lớp, quan hệ phối kết hợp giữa các đơn vị, thậm trí trong nội bộ các đơn vị còn yếu dẫn tới việc khai thác nguồn lực sẵn


có còn hạn chế, lãng phí. Về phân định chắc năng, nhiệm vụ cho các đơn vị: Vẫn còn chồng chéo, trùng lắp, phân tán. Cơ chế quản lý, điều hành tổ chức còn nhiều bất cập; việc thực hiện các nghiệp vụ, chức năng chuyên môn còn hạn chế; nguồn nhân lực chất lượng chưa cao,…

- Quy mô phát triển của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế chưa hợp lý. Thị trường tài chính Việt Nam chưa phát triển đồng đều, phụ thuộc lớn vào hệ thống TCTD.

- Cơ cấu tài sản của toàn ngành thay đổi theo hướng kém bền vững và có yếu tố tăng “ảo”. Hoạt động vay, nhận tiền gửi và cho vay, đi gửi vốn lẫn nhau giữa các TCTD diễn ra phổ biến. Tổng số dư tiền gửi tại các TCTD khác và cho vay các TCTD khác (khoản mục bên tài sản có) tại thời điểm 31/12/2011 đạt 1.087.443 tỷ đồng, tăng 26,14% so với cùng kỳ năm 2010. Đồng thời số dư tiền gửi của các TCTD khác và đi vay các TCTD khác (khoản mục bên tài sản nợ) cuối năm 2011 đạt 1.043.870 tỷ đồng, tăng 56,08% so với cùng kỳ năm 2010. Tỷ trọng tiền gửi và cho vay lẫn nhau giữa các TCTD tăng từ 20,71% (năm 2010) lên 22,22% (năm 2011) tổng tài sản toàn hệ thống.

Hình 4 1 Cơ cấu tổng tài sản toàn ngành theo báo cáo Nguồn Ủy ban Giám sát 1

Hình 4.1. Cơ cấu tổng tài sản toàn ngành theo báo cáo

Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tháng 11/ 2011

- Tỷ trọng dư nợ tín dụng toàn hệ thống so với tổng tài sản giảm. Năm 2011 dư nợ cho vay đạt 2.484.780 tỷ đồng, tăng 292.120 tỷ đồng (13,32%) so với cuối năm 2010. Tuy nhiên tỷ trọng dư nợ tín dụng so với tổng tài sản toàn hệ thống giảm từ 52,67% (năm 2010) xuống còn 50,73% (năm 2011).

- Nhóm NHTMNN vẫn chiếm ưu thế về thị phần tín dụng. Nhóm NHTMNN chiếm thị phần lớn thứ 2 (39,11%) sau nhóm NHTMCP (46,75%) về tổng tài sản,


nhưng lại đứng đầu về thị phần tín dụng với 50,64%, trong khi nhóm NHTMCP chỉ chiếm 37,26% thị phần.

- Cơ cấu nguồn vốn các TCTD có sự dịch chuyển theo hướng phụ thuộc nhiều hơn vào TT2 và huy động vốn trên TT1 ngày càng khó khăn hơn. Tỷ trọng tiền gửi khách hàng trên tổng tài sản giảm từ 51,38% (năm 2010) xuống còn 48,87% (năm 2011). Trong khi đó, nguồn vốn hình thành từ tiền gửi của các TCTD khác và đi vay các TCTD khác lại tăng từ 16,1% (năm 2010) lên 21,3% (năm 2011).

Hình 4 2 Cơ cấu nguồn vốn toàn ngành theo báo cáo Nguồn Ủy ban Giám sát Tài 2


Hình 4.2. Cơ cấu nguồn vốn toàn ngành theo báo cáo

Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tháng 11/ 2011

- Tốc độ tăng trưởng vốn điều lệ chậm lại do năm 2011 hầu hết các TCTD đã đạt mức vốn điều lệ tối thiểu theo quy định. Vốn điều lệ toàn ngành năm 2011 chỉ tăng 27,02%, trong khi năm 2010 tăng tới 40,60%. Trái ngược với xu hướng chung, năm 2011 một số chi nhánh NHNNg tiến hành tăng vốn nhằm tăng cường năng lực tài chính, cạnh tranh với với các TCTD nội địa, góp phần tăng mạnh vốn điều lệ của nhóm này (110,15%).

- Tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm lại so với các năm trước trong khi tỷ lệ nợ xấu lại tăng mạnh. Dư nợ tín dụng toàn hệ thống theo đánh giá lại của UBGSTCQG lớn hơn 12,45% so với dư nợ báo cáo. Đồng thời tỷ lệ nợ xấu thực sự có thể lên tới 11,48% cao hơn 3,7 lần so với số liệu báo cáo.

Hình 4 3 Tăng trưởng dư nợ toàn ngành theo báo cáo Nguồn Ủy ban Giám sát Tài 3


Hình 4.3. Tăng trưởng dư nợ toàn ngành theo báo cáo

Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tháng 11/ 2011

- Dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng mạnh tiềm ẩn nhiều dấu hiệu bất thường. Dư nợ cho vay trung và dài hạn toàn thị trường tăng 15,38% so với năm 2010, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ (41,54%). Trong khi đó, dư nợ cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng 58,46% và chỉ tăng 11,9% trong năm 2011.

- Tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp hơn nhiều so với những năm trước, nhưng

tỷ lệ nợ xấu tăng mạnh, phản ánh chất lượng tín dụng đang theo chiều hướng xấu đi. Trong năm 2011 khi tổng dư nợ chỉ tăng 13,32% thì giá trị nợ xấu tăng tới 59,18% (từ 48.400 tỷ đồng lên 77.042 tỷ đồng). Tỷ lệ nợ xấu tăng tương ứng từ 2,21% (31/12/2010) lên 3,10% (31/12/2011).

Hình 4 4 Giá trị nợ xấu và tỉ lệ nợ xấu theo báo cáo Nguồn Ủy ban Giám 4

Hình 4.4. Giá trị nợ xấu và tỉ lệ nợ xấu theo báo cáo

Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tháng 11/ 2011

Bảng 4.1: Nợ xấu và nợ quá hạn so với tổng dư nợ theo báo cáo


Nhóm TCTD

Tỷ lệ nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ xấu

2010

2011

2010

2011

NHTM NN

10,43%

13,36%

2,16%

2,95%

NHTM CP

3,53%

6,43%

1,66%

2,30%

NHLD, NNg

4,66%

5,76%

1,20%

1,86%

Cty TC, CTTC

21,06%

22,9%

11,38%

16,56%

Toàn ngành

7,69%

10,47%

2,21%

3,10%

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 130 trang tài liệu này.

Nguồn: Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia, tháng 11/ 2011

- Tỷ lệ cho vay/tiền gửi ngoại tệ rất cao, tiềm ẩn rủi ro thanh khoản, tác động xấu tới thị trường ngoại hối và hệ thống ngân hàng. Tại thời điểm 31/12/2011, tỷ lệ


cho vay/huy động ngoại tệ toàn hệ thống ở mức 129,19%, chênh lệch lên tới 123.366 tỷ đồng. Tỷ lệ này đặc biệt cao ở nhóm NHTM NN (124,08%) và NHLD& NHNNg (147,44%).

Thanh khoản của các TCTD luôn nằm trong tình trạng bị động do tiền gửi từ TCKT có xu hướng giảm, tiền gửi từ TCKT giảm 0,13% (31/12/2011), trong khi 31/12/ 2010 tăng 34,7% so với cùng kỳ; đồng thời doanh số tiền gửi từ dân cư bị rút trước khi đáo hạn tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ 2010, dòng tiền huy động của các TCTD biến động mạnh, trong đó tập trung chủ yếu ở 2 nhóm NHTM NN và NHTM CP.

- Tình trạng các TCTD tăng cường cho vay đảo nợ vào thời điểm cuối năm nhằm che dấu nợ xấu diễn ra phổ biến trên toàn hệ thống.

- Kết quả kinh doanh toàn ngành ngân hàng không khả quan như số liệu báo cáo. Lợi nhuận giữa nhóm TCTD không đồng đều. Bên cạnh một số TCTD hoạt động hiệu quả còn không ít đơn vị phải điều chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận, hoặc không đạt được mục tiêu lợi nhuận đề ra, thậm chí là chịu thua lỗ.

- Tổng chi phí của các TCTD ngày càng tăng cao. Trong 3 năm (2009, 2010, 2011), tỷ lệ tổng chi phí/tổng thu nhập toàn hệ thống ngày càng tăng, liên tiếp từ 92,78% (năm 2009) lên 93,79% (năm 2010) và 95,21% (năm 2011).

- Cạnh tranh giữa các TCTD thiếu lành mạnh, thiếu sự hợp tác giữa các TCTD dẫn đến kỷ cương, kỷ luật, chính sách, pháp luật trong hoạt động ngân hàng chưa được tôn trọng. Phương thức cạnh tranh chủ yếu của các TCTD Việt Nam là bằng giá/lãi suất, chưa coi trọng chất lượng dịch vụ.

- Các TCTD trong nước nhìn chung có năng lực tài chính còn hạn chế và hiệu quả kinh doanh thấp: Hiện nay, NHTM của Việt Nam có mức vốn điều lệ thấp hơn rất nhiều so với các NHTM của các nước trong khu vực. Khả năng sinh lời của các hệ thống TCTD ở mức khá thấp so với mức độ rủi ro cũng như các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới.

- Mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam yếu và kém bền vững trước tác động bất lợi từ môi trường kinh doanh: Chất lượng tài sản thấp, nợ xấu tăng nhanh, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế tiếp tục gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế chậm lại, sản xuất kinh doanh khó khăn, thực hiện cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp, thị trường bất động sản còn tiếp tục điều chỉnh giảm và khó phục hồi nhanh. Các TCTD Việt Nam dễ bị mất khả năng chi trả do: (i) Tăng trưởng tín dụng quá nhanh và nhanh hơn huy động vốn trong một thời gian kéo dài; (ii) Cho vay quá mức


dẫn đến hệ số sử dụng vốn của các TCTD Việt Nam rất cao; (iii) Cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn không ổn định; mất cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.

Hội nghị Trung ương 3 Khóa XI đã đặt yêu cầu thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong đó đề ra yêu cầu cơ cấu lại hệ thống tài chính mà trọng tâm là hệ thống các NHTM.

Trên cơ sở quan điểm và định hướng chỉ đạo của Trung ương, ngày 01/3/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 254/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” (Đề án 254) và triển khai các biện pháp giảm thiểu rủi ro, bảo đảm an toàn hệ thống và đánh giá, xác định ngân hàng yếu kém, đồng thời triển khai ngay các biện pháp cơ cấu lại một số ngân hàng yếu kém để ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng và dổ vỡ trong thị trường ngân hàng. Sau 5 năm thực hiện Đề án 254, nguy cơ khủng hoảng hệ thống ngân hàng đã được đẩy lùi, tuy nhiên, những vấn đề căn bản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam (như nợ xấu, rủi ro sở hữu chéo, năng lực và mô hình kinh doanh…) chưa được xử lý triệt để. Do đó, ngày 19/7/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1058/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 – 2020” (Đề án 1058) nhằm khắc phục căn bản các vấn đề còn tồn tại của thị trường ngân hàng Việt Nam.

4.2.2. Những thành tựu, hạn chế của quá trình cải cách hệ thống ngân hàng Việt

Nam giai đoạn 2012 – 2020

4.2.2.1. Những biện pháp cải cách hệ thống ngân hàng đã được áp dụng Thứ nhất: Tăng cường các chuẩn mực trong hoạt động ngân hàng

- NHNN đã ban hành thông tư hướng dẫn triển khai, tính toán hệ số an toàn vốn theo BASEL II, điều chỉnh lộ trình áp dụng BASEL II về cả phương pháp cơ bản và nâng cao cho các tất cả NHTM.

- Xây dựng chế tài xử lý các TCTD vi phạm các chuẩn mực an toàn tài chính, áp dụng biện pháp kiểm soát đặc biệt nếu tình trạng vi phạm diễn ra thường xuyên và kéo dài.

Thứ hai, Đánh giá, phân loại và cơ cấu lại các TCTD yếu kém

Các NHTM được phân làm 5 nhóm từ 1 đến 5, theo thứ tự sức khỏe nội tại và mức tín nhiệm giảm dần, cụ thể:

Nhóm 1 gồm các NH có sức mạnh nội tại rất tốt, bảng cân đối tài sản lành mạnh, lợi nhuận tốt, có khả năng tiếp cận dễ dàng với thị trường tiền tệ, có thương hiệu mạnh và ban quản trị kinh nghiệm. Đây là những ngân hàng có chất lượng tài


sản tốt, tỷ lệ nợ xấu đánh giá lại ở mức tương đối thấp; thanh khoản ổn định, không phụ thuộc thị trường tiền tệ; các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động vượt tỷ lệ bình quân toàn ngành; quy mô vốn và tổng tài sản lớn, chiếm thị phần tương đối lớn trên thị trường, có uy tín và thương hiệu mạnh, mạng lưới rộng; đã xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, phát huy hiệu quả tốt; hệ thống công nghệ đáp ứng tốt nhu cầu phát triển.

Nhóm 2 gồm các NH có sức mạnh nội tại tốt, tuy kém hơn nhóm 1, bảng cân đối tài sản khá lành mạnh, lợi nhuận tốt, có khả năng tiếp cận dễ dàng với thị trường tiền tệ, có thương hiệu mạnh và ban quản trị kinh nghiệm. Đây là những ngân hàng có chất lượng tài sản khá, tỷ lệ nợ xấu điều chỉnh tương đương với bình quân toàn ngành, thanh khoản ở mức tương đối ổn định, không phụ thuộc hoặc ít phụ thuộc vào vốn từ TT2; hiệu quả sinh lời khá; quy mô tài sản ở mức trung bình, khả năng quản trị rủi ro đang dần được nâng cấp.

Nhóm 3 gồm các NH có sức mạnh nội tại tương đối tốt, tuy nhiên hoạt động đang phải đối mặt với một hoặc một số khó khăn liên quan đến sự lành mạnh của bảng cân đối tài sản, khả năng sinh lời, thanh khoản, quản trị doanh nghiệp và năng lực ban quản trị điều hạnh, khả năng tiếp cận thị trường tiền tệ, và sức mạnh thương hiệu. Đây là những ngân hàng có chất lượng tài sản trung bình, nợ xấu bằng hoặc cao hơn bình quân toàn ngành; có những thời điểm mất thanh khoản tạm thời nhưng đã được hồi phục, có phụ thuộc vào nguồn vốn TT2; hiệu quả sinh lời thấp hơn bình quân toàn ngành; các ngân hàng quy mô nhỏ, hệ thống quản trị rủi ro chưa phát huy được tác dụng.

Nhóm 4 gồm các NH hàng yếu, đang phải đối mặt với các khó khăn về các mặt chất lượng tài sản, thanh khoản, khả năng sinh lời, năng lực quản trị điều hành, và thương hiệu nhỏ. Đây là những ngân hàng có chất lượng tài sản kém, tốc độ tăng trưởng tài sản chậm, tỷ lệ nợ xấu cao; đa số ngân hàng trong nhóm này cho vay nhiều vào lĩnh vực BĐS, có các công ty “sân sau” thuộc lĩnh vực BĐS; mất thanh khoản kéo dài, phụ thuộc nhiều vào vốn từ TT2; hiệu quả sinh lời thấp; quy mô nhỏ, thường hiệu ít được biết đến trên thị trường, khả năng quản trị rủi ro yếu.

Nhóm 5 gồm các NH yếu kém đòi hỏi phải có sự hỗ trợ hoặc can thiệp từ bên ngoài để vượt qua khó khăn. Đây là các ngân hàng có chất lượng tài sản kém, tổng tài sản giảm hoặc tăng trưởng chậm, tỷ lệ nợ xấu cao; hầu hết trong nhóm này là có các công ty con, cty “sân sau” hoạt động kinh doanh BĐS, đầu tư cho vay nhiều vào các dự án BĐS; mất thanh khoản trong thời gian dài, khó có khả năng hồi phục, phụ


thuộc nhiểu vào vốn từ TT2; hiệu quả sinh lời kém hoặc thua lỗ; các ngân hàng quy mô nhỏ, không có thương hiệu trên thị trường, khả năng quản trị rủi ro kém.

Các NH cũng được đánh giá thêm về triển vọng ngắn hạn (từ 6 tháng đến 1 năm). Triển vọng ngắn hạn bao gồm 3 loại, tích cực, ổn định, và tiêu cực. Các NH với triển vọng tích cực sẽ cải thiện hoạt động so với thực trạng theo phân tích đánh giá lại do nỗ lực nội tại của NH, bảng tổng kết tài sản được đánh giá sẽ phản ứng tích cực với môi trường và chính sách kinh tế vĩ mô. Các NH với triển vọng ổn định sẽ giữ trạng thái hoạt động tương đồng với thực trạng theo phân tích đánh giá lại. Các NH với triển vọng tiêu cực sẽ có xu hướng hoạt động kém hơn so với thực trạng theo phân tích đánh giá lại do nỗ lực nội tại của NH còn hạn chế, bảng tổng kết tài sản được đánh giá sẽ phản ứng tiêu cực với môi trường và chính sách kinh tế vĩ mô.

Thứ ba, mua bán, sáp nhập và hợp nhất các NHTM

Đến tháng 10/2011, 9 ngân hàng thương mại cổ phần yếu đã được xác định và khoanh vùng gồm SCB, Đệ Nhất, Tín Nghĩa, Habubank, Tienphongbank, GP bank, Navibank, TrustBank và Western Bank. Ngày 7/6/2012, lần đầu tiên nợ xấu của các tổ chức tín dụng được Thống đốc NHNN công bố tại Quốc hội với con số khoảng 202 nghìn tỷ đồng (tương đương 8,6% tổng dư nợ tín dụng tòa hệ thống).

Các thương vụ sáp nhập NH trong năm 2015 gồm có Xăng Dầu Petrolimex (PG Bank) sáp nhập vào Vietinbank (22/5/2015); MHB sáp nhập vào BIDV (25/5/2015); MDB sáp nhập vào Maritime Bank (12/8/2015); và Southern Bank vào Sacombank (1/10/2015). Cuối quý 3/2011, Việt Nam có 42 NHTM trong nước nhưng đến cuối năm 2015, số lượng các NHTM Việt Nam đã giảm xuống còn 34.

Bên cạnh đó, NHNNVN đã kịp thời mua lại một số NHTM “yếu kém” với giá “0 đồng”, đây dường như là một động thái chính sách kịp thời giúp cho các NHTM này không bị đổ vỡ. Cụ thể, Ngân hàng TMCP Đại Dương bị NHNNVN mua lại với giá 0 đồng vào 6/5/2015 (Quyết định số 663/QĐ-NHNN) và Vietinbank được NHNNVN chỉ định quản trị và điều hành Ngân hàng TMCP Đại Dương; ngày 7/7/2015, NHNN ban hành Quyết định 1304/QĐ-NHNN mua GP Bank với giá 0 đồng. Ngày 14/8/2015, NHNNVN thông báo Ngân hàng TMCP Đông Á bị kiểm soát đặc biệt sau khi công bố kết quả thanh tra toàn diện và đây là ngân hàng tiếp theo bị mua lại với giá 0 đồng.

Thứ tư, đẩy mạnh cổ phần hóa các NHTMNN

Tính đến tháng 6/2014, 04/5 NHTMNN đã hoàn tất quá trình cổ phần hóa (NHTMCP Ngoại thương – Vietcombank, NHTMCP Công thương – Vietinbank,


NHTMCP Đầu tư và Phát triển – BIDV, NHTMCP Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long) trong đó 03 ngân hàng đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán (Vietcombank, Vietinbank và BIDV) và có sự tham gia của nhà đầu tư chiến lược ở 02 ngân hàng, cụ thể: (i) sau khi ký kết thỏa thuận hợp tác với Ngân hàng Mizuho (Nhật Bản) tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông Nhà nước tại Vietcombank là 77,11% vốn điều lệ (giảm so với mức 90,72% của năm 2011); (ii) sau khi phát hành thêm cổ phần cho Ngân hàng Tokyo Mitsubitshi, tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông Nhà nước tại Vietinbank là 64,46% vốn điều lệ (giảm so với mức 81,31% của năm 2011); (iii) BIDV được cổ phần hóa với tỷ lệ sở hữu Nhà nước còn 95,76%; (iv) Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long được cổ phần hóa với tỷ lệ sở hữu Nhà nước còn 91,26%.

Thứ năm, xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM

Tăng cường cơ chế xử lý tài sản đảm bảo: Chính phủ chỉ đạo NHNN, Bộ Tư pháp và các Bộ, Ngành có liên quan nghiên cứu sửa đổi các Luật và khung pháp lý liên quan đến việc mua bán TSBĐ để thúc đẩy xử lý nợ xấu, đặc biệt là xác lập quyền sở hữu tài sản.

- NHNN, Bộ tư pháp, Bộ tài nguyên và môi trường nghiên cứu, sửa đổi bổ sung thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06/06/2016 về hướng dẫn một số vấn đề xử lý TSBĐ.

- Sửa đổi Luật đất đai: Ghi rõ họ tên của tất cả các thành viên có quyền sử dụng đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thay vì chỉ ghi chung là hộ gia đình.

- Sửa đổi luật tố tụng dân sự: Sửa đổi, bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án theo hướng rút gọn thời gian giải quyết vụ án, có quy định về giải quyết trong trường hợp khách hàng vay cố tình vắng mặt, không hợp tác.

- Sửa đổi và bổ sung các quy định về phối hợp giữa các bộ ban ngành trong Quyết định số 843/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng”, cụ thể: Đưa ra cơ chế đặc thù xử lý nhanh TSBĐ không qua tố tụng, có cơ chế xử lý mạnh với các trường hợp khách hàng không hợp tác.

Xây dựng thị trường mua bán nợ:

- NHNN và các bộ ngành có liên quan nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý cho cơ chế mua – bán nợ, hình thành và phát triển thị trường mua bán nợ thứ cấp.

- Sửa đổi luật thi hành án dân sự: Bổ sung quy định về chuyển giao quyền và nghĩa vụ trong hoạt động mua bán nợ.


Thành lập công ty quản lý, xử lý nợ xấu: Kể từ khi thành lập Công ty Quản lý tài sản của các TCTD – VAMC (theo Quyết định số 1459/QĐ-NHNN ngày 27/6/2013 của Thống đốc NHNN), các văn bản về tổ chức và hoạt động của VAMC đã được ban hành khá đầy đủ để tạo cơ sở pháp lý cho VAMC có thể đi vào hoạt động ngày sau khi thành lập (như: Quyết định số 1590/QĐ-NHNN ngày 22/7/2013 về việc phê duyệt Điều lệ tổ chức và hoạt động của VAMC; Thông tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC; Thống tư số 20/2013/TT-NHNN ngày 09/9/2013 quy định về cho vay tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của VAMC; Quyết định số 2358/QĐ-TTg ngày 04/12/2013 quy định lãi suất tái cấp vốn của NHNN đối với các TCTD trên cơ sở trái phiếu đặc biệt của VAMC…).

Tuy nhiên, quy mô vốn điều lệ của VAMC thấp hơn rất nhiều so với quy mô nợ xấu của các TCTD và đây chỉ là vốn đệm còn vốn thực sự dùng để mua lại nợ được tạo ra bằng cách phát hành trái phiếu đặc biệt. Tính chất đặc biệt này được thể hiện ở chỗ nó không trả lãi và có giá trị đáo hạn bằng 0. Ngoài ra, trái phiếu này cũng không có khả năng chuyển đổi trên thị trường thứ cấp. Nói khác đi, trái phiếu có tính chất như là một phiếu ghi nợ của VAMC, hay nói chính xác hơn là “phiếu ký gửi nợ” do VAMC phát hành để ghi nhận khoản nợ do các NHTM chuyển qua. Như vậy, thay vì VAMC phát hành trái phiếu như điều kiện bình thường và dùng tiền đó để mua nợ của ngân hàng thì với trái phiếu đặc biệt này không có bất kỳ một nguồn lực tài chính thực sự nào được chuyển giao cho ngân hàng.

Tính đến hết năm 2018, cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động của VAMC đã được kiện toàn theo Đề án cơ cấu lại và nâng cao năng lực của Công ty Quản lý tài sản giai đoạn 2017-2020 và hướng tới 2022 đã được NHNN phê duyệt tại Quyết định số 28/QĐ-NHNN ngày 05/01/2018. VAMC đã triển khai hoạt động mua và xử lý nợ xấu đã mua của các TCTD đạt được nhiều kết quả nổi trội. Theo đó, VAMC đã triển khai hiệu quả hoạt động mua nợ theo giá trị thị trường (GTTT) đạt 2.819 tỷ đồng giá mua nợ; mua nợ bằng trái phiếu đặc biệt (TPĐB) đạt 29.812 tỷ đồng giá mua nợ; xử lý các khoản nợ xấu đã mua đạt 78.000 tỷ đồng dư nợ gốc (đạt 226% kế hoạch) với giá trị thu hồi nợ đạt 37.250 tỷ đồng. Đặc biệt từ khi Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội có hiệu lực, kết quả thu hồi nợ của VAMC trong năm 2017 và 2018 đạt

68.103 tỷ đồng [145].

4.2.2.2. Một số thành tựu đạt được

Xem tất cả 130 trang.

Ngày đăng: 23/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí