Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 2

Thương phiếu hay còn gọi là kỳ phiếu thương mại là một loại giấy nhận nợ đặc biệt người giữ nó có quyền đòi tiền khi đến hạn. Thương phiếu bao gồm:

- Hối phiếu: là phiếu ghi nợ

do người bán hàng trả

chậm ký phát trao cho

người mua hàng trả chậm trong đó yêu cầu người mua phải trả một số tiền nhất định khi đến hạn cho người bán hoặc bất cứ người nào xuất trình hối phiếu này (người thụ hưởng).

- Lệnh phiếu: là giấy nhận nợ do người mua hàng trả chậm ký phát trao cho người bán hàng trả chậm trong đó người mua cam kết trả một số tiền nhất định khi đến hạn cho người thụ hưởng.

- Chứng chỉ lưu kho: là giấy do một công ty kinh doanh kho bãi ký phát, thừa nhận có giữ hàng hoá cho người chủ hàng ký gửi và cam kết giao hàng cho chủ hàng hay một người nào đó do chủ hàng chỉ định bằng cách ký hậu.

Các chứng chỉ tiên gửi có thể chuyển nhượng

Là giấy chứng nhận về việc gửi tiền và là một công cụ vay nợ của ngân hàng đối với người gửi tiền. Trên chứng chỉ qui định người sở hữu nó sẽ nhận được một khoản tiền lãi định kỳ và nhận đủ số vốn khi đáo hạn. Người nắm giữ chứng chỉ này không được rút tiền trước khi đến hạn mà chỉ có thể thu hồi tiền bằng cách bán lại trên thị trường thứ cấp. Chứng chỉ tiền gửi là một công cụ quan trọng trong việc tạo nguồn vốn hoạt động và đảm bảo tính thanh khoản cho ngân hàng.

Chấp phiếu ngân hàng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 480 trang tài liệu này.

Là giấy do một công ty phát hành, bảo đảm rằng một ngân hàng sẽ thanh toán vô điều kiện một khoản tiền nhất định vào một thời điểm nhất định trong tương lai cho người nắm giữ giấy này. Công ty trước khi phát hành công cụ này buộc phải gửi

vào tài khoản ngân hàng một khoản tiền tương ứng với lượng tiền ghi trên chấp

Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 2

phiếu. Người nắm chấp phiếu ngân hàng cũng có thể chiết khấu lại trên thị trường để thu tiền trước. Lãi suất của công cụ này tương đối thấp do tính an toàn cao.

3.2. Các công cụ trên thị trường vốn

Các công cụ trên thị trường vốn bao gồm các công cụ vốn và các công cụ nợ có thời gian đáo hạn trên một năm. Loại công cụ này có biến động giá mạnh hơn và tính thanh khoản thấp hơn các công cụ trên thị trường tiền tệ và được coi là những khoản

đầu tư khá rủi ro. Những loại công cụ chính là cổ phiếu (công cụ vốn) và trái phiếu (công cụ nợ). Ngoài ra còn có các công cụ chuyển đổi hoặc các công cụ phát sinh.

Cổ phiếu: là giấy Chứng nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập và tài sản của một công ty cổ phần. Cổ phiếu bao gồm nhiều loại khác nhau như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu ưu đãi dự phần...

Trái phiếu: là giấy chứng nhận việc vay vốn của một chủ thể (chủ thể phát hành) đối với một chủ thể khác (chủ thể cho vay vốn). Trên trái phiếu quy định hàng

kỳ chủ thể phát hành phải trả cho người nắm giữ trái phiếu một khoản tiền nhất định

(lãi tức trái phiếu) và tới thời điểm đáo hạn phải hoàn trả khoản vốn cho vay ban đầu. Có nhiều loại trái phiếu khác nhau như trái phiếu công ty, trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu có thể chuyển đổi...

Các khoản tín dụng cầm cố: là các khoản cho vay đối với các doanh nghiệp hoặc các hộ gia đình để mua nhà ở, đất đai. bất động sản và dùng chính các tài sản này làm thế chấp cho khoản vốn vay.

Các khoản tín dụng thương mại: là các khoản cho vay trung, dài hạn của các ngân hàng thương mại hoặc các công ty tài chính cho người tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn. Các khoản tín dụng này trường không được giao dịch mua bán trên thị trường thứ cấp nên tính thanh khoản rất thấp.

Chứng chỉ quỹ đầu tư: là một loại chứng khoán do công ty quản lý quỹ đại

diện cho một quỹ

đầu tư

chứng khoán phát hành, xác nhận quyền hưởng lợi của

người đầu tư đối với quỹ.

4. Các trung gian tài chính

Trung gian tài chính là những tổ chức làm cầu nối giữa những người cần vốn và những người cung cấp vốn trên thị trường. Trung gian tài chính, dù thuộc loại hình nào đi nữa, đều có chung một đặc điểm là phát hành các công cụ tài chính để thu hút vốn. Mức chênh lệch mà người trung gian nhận được giữa lãi suất cho vay (hay lợi tức đầu tư) với lãi suất huy động vốn chính là chí phí trung gian hay hoa hồng trung gian. Khi những người có vốn ký thác số vốn của mình vào các trung gian tài chính, khoản đầu tư của họ là đầu tư gián tiếp; còn khi trung gian tài chính đầu tư số vốn này, khoản đầu tư đó là đầu tư trực tiếp.

4.1. Các loại hình trung gian tài chính

Các tổ chức trung gian tài chính gồm ba nhóm chính: các tổ chức nhận tiền gửi (ngân hàng), các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng và các trung gian đầu tư.

a. Các tổ chức nhận tiền gửi

Đây là các tổ chức tài chính trung gian lớn nhất trên thị trường tài chính xét theo phạm vi hoạt động và khả năng về vốn. Các tổ chức này huy động vốn bằng cách mở tài khoản séc và tài khoản tiết kiệm cho khách hàng, đồng thời sử dụng số vốn huy động được để cho vay theo nhiều hình thức khác nhau hoặc đầu tư vào chứng khoán. Thu nhập của các tổ chức này đến từ hai nguồn: thu nhập từ các khoản cho vay và mua chứng khoán; và thu nhập từ các khoản phí.

Các tổ chức nhận tiền gửi bao gồm các ngân hàng thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay (S&Ls), các ngân hàng tiết kiệm và các liên hiệp tín dụng.

b. Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng

Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng như công ty bảo hiểm và quỹ hưu trí là các trung gian tài chính huy động vốn dựa trên cơ sở hợp đồng theo định kỳ. Các tổ chức này có thể dự đoán tương đối chính xác khoản tiền họ sẽ thanh toán trong những năm tới nên không phải lo lắng về việc thiếu vốn như các tổ chức nhận tiền gửi. Do đó, các tổ chức này có thể đầu tư các loại chứng khoán dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu công ty, các khoản cho vay cầm cố.

Công ty bảo hiểm

Công ty bảo hiểm là những trung gian tài chính đảm nhận việc thực hiện một khoản thanh toán mỗi khi có một sự kiện xảy ra, với một khoản đóng góp trước đó của người muốn thụ hưởng quyền lợi này. Công ty bảo hiểm huy động vốn từ các khoản đóng góp của những người tham gia hợp đồng bảo hiểm và sử dụng phần lớn số tiền huy động được để mua trái phiếu. Các công ty bảo hiểm cũng có thể đầu tư vào cổ phiếu song số lượng rất hạn chế vì họ ngại tính rủi ro cao của cổ phiếu. Thu nhập của công ty bảo hiểm chủ yếu là các khoản phí, ngoài ra còn có các khoản lợi tức đầu tư từ các công cụ tài chính.

Quỹ hưu trí

Quỹ hưu trí được thiết lập để thanh toán những khoản lợi ích của những người lao động khi họ về hưu. Thành lập ra những quỹ này là các doanh nghiệp tư nhân; các

cơ quan nhà nước hoặc địa phương; các nghiệp đoàn lao động nhân danh thành viên của mình, và cuối cùng là các cá nhân có nhu cầu.

Đặc điểm của quỹ này là nó liên quan đến việc đầu tư vào một tài sản rất kém tính thanh khoản, đó là hợp đồng về tiền hưu trí. Tài sản này không được đem sử dụng, dù chỉ là để thế chấp cho một khoản vay cho đến khi về hưu. Tuy nhiên, lợi thế của các quỹ này là các khoản đóng góp của các ông chủ, và một khối lượng nhất định đóng góp của người lao động, cũng như thu nhập từ tài sản của quỹ, được phép đóng thuế chậm. Về thực chất, quỹ hưu trí là một hình thức trả công của ông chủ mà người làm công không bị đánh thuế cho đến khi rút số tiền này. Nó có tác dụng khuyến khích những người làm công ở lại với doanh nghiệp.

c. Các trung gian đầu tư

Các trung gian đầu tư bao gồm các công ty tài chính, quỹ tương hỗ và quỹ tương hỗ thị trường tài chính.

Công ty tài chính

Công ty tài chính huy động vốn băng cách bán các thương phiếu hoặc phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Sau đó, công ty sử dụng số vốn này cho người tiêu dùng vay để mua sắm nhà cửa, trang thiết bị, xe hơi... Một số công ty tài chính được một công ty mẹ thành lập để bán tài sản của công ty mình. Chẳng hạn, công ty tín dụng Ford có thể cho khách hàng vay để mua ôtô Ford.

Quỹ tương hỗ

Đây là một loại hình trung gian tài chính, huý động vốn bằng cách bán chứng chỉ quỹ cho các cá nhân và dùng vốn đó để đầu tư vào danh mục cổ phiếu và trái phiếu đã được đa dạng hoá. Các quỹ tương hỗ thường được quản lý bởi một công ty quản lý quỹ. Một công ty quản lý quỹ có thể quản lý nhiều quỹ khác nhau để đa dạng hoá đầu tư do mỗi quỹ thường chỉ tập trung đầu tư vào một số loại chứng khoán nhất định.

Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ

Thể chế tài chính tương đối mới này mang các đặc trưng của quỹ tương hỗ nhưng được phép mở tài khoản tiền gửi cho khách hàng. Giống như hầu hết các quỹ tương hỗ, tổ chức này được phép bán cổ phiếu để huy động vốn đồng thời sử dụng số vốn này để mua các công cụ an toàn và có tính thanh khoản cao trên thị trường tiền tệ. Lãi suất của các tài sản này sẽ được thanh toán định kỳ cho cổ đông.

Trên đây là một số loại hình trung gian tài chính phổ biến. Mặc dù phương thức hoạt động cụ thể của tổ chức này là khác nhau song chúng thể hiện rất rõ vai trò trung gian tài chính được đề cập dưới đây.

4.2. Vai trò của các trung gian tài chính

a. Chuyển đổi thời gian đáo hạn của các công cụ tài chính

Có thể nhận thấy chức năng này rõ nhất thông qua hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi, chủ yếu là các ngân hàng thương mại. Nhờ có các trung gian tài chính, cả người đầu tư (người gửi tiền) và người đi vay đều có thể lựa chọn dược những thời hạn thích hợp với mục tiêu của mình.

b. Giảm thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hoá đầu tư

Loại hình trung gian tài chính càng phong phú, các sản phẩm tài chính do chúng tạo ra càng đa dạng. Khi các nhà đầu tư đặt tiền của họ vào các công ty đầu tư, những công ty này có thể dầu tư số tiền đó vào, chẳng hạn, cổ phiếu của một số lớn các công ty. Bằng cách đó, công ty đầu tư đã đa dạng hoá việc đầu tư và giảm thiểu được rủi ro của nó. Điều này chỉ có thể thực hiện dược với diều kiện có dược một khối lượng tiền đủ lớn; và nó giải thích vì sao việc đa dạng hoá đầu tư, tức biến những tài sản nhiều rủi ro thành những tài sản ít rủi ro hơn, lại là ưu thế của các trung gian tài chính và rộng hơn, là lợi ích kinh tế quan trọng của các thị trường tài chính.

c Giảm thiểu chi phỉ hợp đồng và chi phí xử lý thông tin

Những nhà đầu tư vào các tài sản tài chính phải có được những kỹ năng cần thiết để đánh giá một khoản dầu tư phân tích khả năng lợi nhuận, mức độ rủi ro của từng tài sản tài chính cũng như của toàn bộ khoản mục đầu tư để từ đó ra quyết định mua hoặc bán các tài sản tài chính. Tuy nhiên, các nhà đầu tư cá nhân thường không có điều kiện để phát triển những kỹ năng này, cả về mặt thời gian và kiến thức. Họ thường phải thuê người viết hợp đồng, làm phát sinh chi phí hợp đồng. Bên cạnh đó, để xác nhận mức độ tin cậy và xử lý những thông tin thu thập dược về tài sản tài chính và về người phát hành tài sản đó, nhà đầu tư cũng phải bỏ ra một khoảng thời gian và chi phí nhất định, được gọi là chi phí xử lý thông tin.

Các trung gian tài chính, với tư cách là các nhà đầu tư chuyên nghiệp, có thể giảm thiểu tất cả những chi phí đó do ưu thế về tính tập trung, chuyên môn hoá và quy mô đầu tư lớn hơn.

d. Cung cấp một cơ chế thanh toán

Ngày nay đa số các giao dịch được thực hiện mà không dùng tiền mặt. Việc thanh toán có thể sử dụng séc, thẻ tín dụng, hoặc việc chuyển tiền điện tử. Một số trung gian tài chính sẽ đảm nhiệm việc cung cấp những phương thức thanh toán này.

Trước đây, việc thanh toán không dùng tiền mặt chỉ được giới hạn ở các tài khoản vãng lai có thể ký séc tại các ngân hàng thương mại, sau đó được mở rộng ra các hiệp hội tín dụng, và một số công ty đầu tư. Thanh toán bằng thẻ tín dụng trước đây cũng chỉ được thực hiện tại các ngân hàng thương mại nhưng giờ dây các tổ chức nhận tiền gửi công cung cấp dịch vụ này. Như vậy, việc thanh toán không dùng tiền mặt đã trở thành một trong các chức năng quan trọng của trung gian tài chính.

5. Mối quan hệ giữa các bộ phận của thị trường tài chính

Qua nghiên cứu về cấu trúc của thị trường tài chính, người ta có thể nhận thấy

giữa các thị

trường cấu thành có mối quan hệ

chặt chẽ

và biện chứng với nhau.

Những biến động trên thị trường này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các thị trường khác. Khi nền kinh tế phát triển, thị trường tài chính ngày càng trở nên tinh vi và phức tạp, ranh giới truyền thống giữa các công cụ tài chính hay giữa các loại thị trường ngày càng mang tính tương đối. Các công cụ tài chính được lưu thông đan xen

giữa các loại thị trường và được chuyển hoá lẫn nhau. những công cụ mới không

ngừng ra đời, trong đó có nhiều loại công cụ hỗn hợp mang những đặc trưng của nhiều loại công cụ khác nhau. Do đó các bộ phận của thị trường tải chính càng trở nên gắn bó chặt chẽ với nhau. Dưới đây sẽ trình bày một số quan hệ tồn tại hiện nay trên thị trường tài chính.

Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường ngoại hối.

Thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ có quan hệ khăng khít với nhau, không có thị trường nào hoạt động một cách độc lập tuyệt đối mà chúng tác động qua lại và chi phối lẫn nhau. Một biến động trên thị trường tiền tệ đều dẫn dấn những thay đổi trên thị trường ngoại hối. Các mối quan hệ hình thành giữa hai thị trường này chủ yếu thông qua hai biến số cơ bản: lãi suất và tỷ giá. Sự biến động của lãi suất trên thị trường tiền tệ có thể tác động dấn các luồng vốn di chuyển giữa hai thị trường này, ảnh hưởng tới mối quan hệ cung - cầu về ngoại tệ, làm tỷ giá hôi đoái trên thị trường ngoại hối thay đổi. Để minh hoạ cho mối quan hệ này có thể xem xét một thực

tế như sau: Cho tới tháng 6 năm 2000, trong vòng hơn một năm, Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã liên tục 6 lần tăng lãi suất. Theo một phản ứng dây chuyền, Ngân hàng trung ương châu Âu cũng nâng lãi suất và lãi suất trên thị trường liên ngân hàng theo đó tăng lên. Chịu ảnh hưởng của xu hướng này, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng từng bước nâng lãi suất huy động ngoại tệ tăng nên đã có một khối lượng khá lớn tiền gửi VND được rút ra khỏi tài khoản ngân hàng để mua ngoại tệ trên thị trường và sau đó lại được gửi vào ngân hàng bằng USD để hưởng phần lãi suất cao hơn. Vốn huy động ngoại tệ tăng mạnh ở một số ngân hàng thương mại. Mặt khác, mặc dù lãi suất huy động USD đã được nâng lên song vẫn thấp hơn lãi suất USD trên thị trường quốc tế (chênh lệch vào khoảng 1,4 - 1,8% vào thời điểm đầu năm 2000), khiến cho việc huy động ngoại tệ trong nước và chuyển ra nước ngoài để hưởng lãi suất cao hơn trở thành một hoạt động sinh lời hấp dẫn đối với các ngân hàng thương mại. Nhu cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối vì vậy gia tăng nhanh chóng và do đó tỷ giá có xu hướng bị đẩy lên.

Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán

Mối quan hệ giữa thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán được thể hiện thông qua sự tác động của lãi suất và tỷ giá hối đoái lên giá cả chứng khoán.

Tỷ giá hối đoái là nhân tố tác động mạnh mẽ tới quyết định đầu tư trên thị trường chứng khoán. Khi các nhà đầu tư vào chứng khoán và sẽ thay thế bàng tài sản ngoại tệ vì chứng khoán chính là tiền, nếu tiền mất giá thì giá trị chứng khoán sẽ bị giảm. Các nhà đầu tư này có thể sẽ chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Như vậy, tác động của tỷ giá hối đoái đã làm dịch chuyển đầu tư từ thị trường chứng khoán sang thị trường hối đoái hoặc ngược lại.

Lãi suất thị trường là nhân tố tác động trực tiếp tới giá cả chứng khoán thông qua việc thay đổi mức lợi suất yêu cầu của các nhà đầu tư khi chấp nhận đầu tư vào chứng khoán đó. Khi thị trường tiền tệ có dấu hiệu thay đổi lãi suất chiết khấu và lãi suất tái chiết khấu từ ngân hàng trung ương thì lập tức sẽ ảnh hưởng tới lượng tiền cung ứng và tác động tới cung tín dụng từ phía ngân hàng thương mại, đồng thời cũng tác động tới giá cả chứng khoán. Tuy nhiên, mức độ tác động của lãi suất vào giá cả trái phiếu và cổ phiếu lại khác nhau. Lãi suất tác động trực tiếp tới giá trái phiếu, khi lãi suất chiết khấu tăng (hoặc giảm) thì giá trái phiếu trên thị trường sẽ giảm (hoặc

tăng). Còn đối với cổ phiếu, quan hệ giữa lãi suất và giá không phải là mối quan hệ trực tiếp và hoàn toàn một chiều. Mức độ ảnh hưởng của lãi suất lên giá cổ phiếu phụ thuộc vào nguyên nhân gây ra thay đổi đó và mức độ tác động của thay đổi này lên dòng thu nhập tương lai của cổ phiếu. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy mối quan hệ giữa lãi suất và giá cổ phiếu thường là ngược chiều do khi lãi suất thị trường tăng, giá trái phiếu giảm thì người đầu tư có xu hướng chuyển từ đầu từ cổ phiếu sang trái phiếu khiến cho giá cổ phiếu giảm và ngược lại.

Tóm lại, quá trình lưu chuyển vốn trên thị trường tài chính thể hiện ở sơ đồ lưu chuyển tiền tệ sau đây:

SƠ ĐỒ (LƯU CHUYỂN VỐN TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH)



Qua sơ đồ trên ta thấy được mức độ phát triển của thị trường tài chính có ý nghĩa quan trọng đối với việc khuyến khích tiết kiệm, khuyến khích đầu tư và thúc đẩy quá trình vốn hoá trong nền kinh tế. Đặc biệt ở đây phải kể đến vai trò của các tổ chức trung gian tài chính, bộ phận đã chuyển tải một khối lượng đáng kể nguồn tiết kiệm đưa vào đầu tư và góp phần tích cực trong việc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn.

SƠ ĐỒ TIẾP


Qua sơ đồ trên có thể thấy thị trường tài chính là đối tượng tác động của các chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương (hay rộng hơn, các chính sách tài chính - tiền tệ của chính phủ), nhằm đạt được các mục tiêu của nền kinh tế. Tất cả những biện pháp chính sách đều tác động tới các bộ phận của thị trường tài chính theo những phương thức khác nhau và đan chéo nhau. Thị trường tài chính càng phát triển ở trình độ cao, các kênh liên hệ càng nhiều (do có nhiều loại hình trung gian tài chính; cung cấp nhiều dịch vụ tài chính thông qua các công cụ tài chính ngày càng đa dạng) thì tính nhạy cảm với các biện

pháp chính sách càng cao.

II. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán

Xem tất cả 480 trang.

Ngày đăng: 13/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí