Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách rất tự phát và sơ khai, xuất phát từ một nhu cầu đơn lẻ từ buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ XV ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi mua bán các vật phẩm hàng hoá... lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành “thị trường” với việc thống nhất các quy ước và dần dần các quy ước này được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “thị trường”.
Phiên chợ riêng đầu tiên được diễn ra vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ), tại đó có một bảng hiệu hình ba túi da với một từ tiếng Pháp là "Bourse" tức là "Mậu dịch thị trường" hay còn gọi là "Sở giao dịch".
Vào năm 1547, thành phố ở Bruges (Bỉ) mất đi sự phồn thịnh do eo biển Even bị lấp cát nên mậu dịch thị trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers (Bỉ), ở đây thị trường phát triển rất nhanh và giữa thế kỷ XVI một quan chức đại thần của Anh quốc đã đến quan sát về thiết lập một mậu dịch thị trường tại London (Anh),
nơi mà sau này được gọi là Sở Giao dịch chứng khoán London. Các mậu dịch thị
trường khác cũng lần lượt được thành lập tại Pháp, Đức, và Bắc Âu.
Sự phát triển thị trường ngày càng mạnh cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và nhiều nội dung khác nhau, vì vậy theo tính chất tự nhiên nó lại được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao địch hàng hoá, thị
trường hối đoái, thị
trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị
trường chứng
khoán... với đặc tính riêng của từng thị trường thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 1
- Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 2
- Các Tổ Chức Đó Liên Quan Đến Thị Trường Chứng Khoán
- Căn Cứ Vào Phương Thức Hoạt Động Của Thị Trường, Thị Trường Chứng Khoán Được Phân Thành Thị Trường Tập Trung (Sở Giao Dịch Chứng Khoán) Và Phi
- Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - 6
Xem toàn bộ 480 trang tài liệu này.
Quá trình các giao dịch chứng khoán diễn ra và hình thành như vậy một cách tự phát cũng tương tự ở Pháp, Hà Lan, các nước Bắc Âu, các nước Tây Âu khác và Bắc Mỹ.
Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những ký hiệu giao dịch bằng tay và có thư ký nhận lệnh của khách hàng. Cho đến năm 1921, ở Mỹ, khu chợ ngoài trời được chuyển vào trong nhà, Sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập.
Ngày nay, cùng với sự
phát triển của công nghệ, khoa học kỹ
thuật, các
phương thức giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán cũng đã được cải tiến theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch. Các sở giao dịch dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ giao dịch thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử.
Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán thế giới trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên, lúc xuống. Vào những năm 1875 - 1913, thị trường chứng khoán thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới
lúc đó, nhưng rồi đến “ngày thứ
Năm đen tối”, tức nguy 29- 10- 1929, thị
trưởng
chửng khoán Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản đã khủng hoảng. Mãi cho tới khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, các thị trường mới dần phục hồi và phát triển mạnh và cho tới năm 1987, một lần nữa các thị trường chứng khoán trên thế giới điên đảo với "ngày thứ Hai đen tối" do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu
cầu của giao dịch, sụt giá chứng khoán mạnh, gây mất lòng tin và phản ứng dây
chuyền mà hậu quả của nó còn nặng hơn cuộc khủng hoảng năm 1929. Gần đây nhất, thị trường chứng khoán ở các nước và lãnh thổ Đông Á, Nga và một số thị trường ở châu Mỹ cũng đã rơi vào vòng xoáy của cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ, giảm lòng tin và có tính chất lây lan, tạo ra sự suy giảm ghê gớm chỉ số giá chứng khoán.
Cho đến nay, các nước trên thế giới đã có khoảng trên 160 sở giao dịch chứng khoán phân tán trên khắp các châu lục, bao gồm cả các nước phát triển trong khu vực Đông Nam Á vào những năm 1960 - 1970 và những nước như Ba Lan, Hunggary, Séc, Nga, Trung quốc vào những năm đầu 1990...
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thế giới cho thấy giai đoạn đầu thị trường phát triển một cách tự phát với sự tham gia của các nhà đầu cơ. Dần dần về sau mới có sự tham gia của công chúng đầu tư. Khi phát triển đến một mức độ nhất định, thị trường bắt đầu phát sinh những trục trặc dẫn đến phải thành lập cơ quan quản lý nhà nước và hình thành hệ thống pháp lý để điều chỉnh hoạt động của thị trường. Kinh nghiệm cho thấy, phần lớn các thị trường chứng khoán sau khi thiết lập muốn hoạt động có hiệu quả, ổn định và nhanh chóng phát triển vững chắc phải có sự chuẩn bị chu đáo mọi mặt về hàng hoá, luật pháp, con người, bộ máy quản
lý và đặc biệt là sự giám sát và quản lý nghiêm ngặt của nhà nước. Song cũng có một số thị trường chứng khoán có sứ trục trặc ngay từ ban đầu như thị trương chứng khoán Thái Lan, Indonesia, hoạt động trì trệ một thời gian dài do thiếu hàng hoá và do không được quan tâm đúng mức, thị trường chứng khoán Phihppines kém hiệu quả do thiếu sự chỉ đạo và quản lý thống nhất hai sở giao dịch (Makita và Manila), thị trường chứng khoán Ba Lan, Hunggary gặp trục trặc do
việc chỉ đạo giá cả quá cao hoặc quá thấp...
Tuy nhiên, cho tới nay, thi trường chứng khoán phát triển ở mức có thể nói là không thể thiếu trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển dang cần thu hút luồng vốn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân.
2. Giơi thiệu thị trường chứng khoán các nươc
Các thị trường cổ phiếu lớn trên thế giới:
(Biểu đồ)
Trong đó:
NYSE: Sở Giao dịch chửng khoán New York. LSE: Sở Giao dịch chứng khoán London.
TSE: Sở Giao dịch chứng khoán Tokyo.
NASDAQ: Hiệp hội các Nhà kinh doanh chứng khoán Quốc gia và hệ thống Báo giá tự động.
HKSE: Sở Giao dịch chứng khoán Hongkong. SSE: Sở Giao dịch chứng khoán Singapore.
1 Đối với NYSE, LSE, TSE, NADAQ, số liệu về dung lượng vốn thị trường nội địa được tính đến 31-3-1998; đối với các thị trường khác, tổng dung lượng vốn thị trường dược tính đến năm 1997.
2 Tổng số các loại chứng khoán được niêm yết tính đến năm 1997.
Để giúp bạn đọc hình dung được cơ cấu và hoạt động của thị trường chứng khoán, chúng tôi xin giới thiệu sơ bộ về một số thị trường chứng khoán trên thế giới.
Thị trường chứng khoán Mỹ
Thị trường chứng khoán Mỹ có lịch sử phát triển lâu đài và đã đạt đến trình độ cao về mọi mặt, từ hệ thống luật chứng khoán đến hệ thống giao dịch chứng khoán và đặc biệt đã xây dựng được cơ quan quản lý nhà nước mạnh. Chính vì vậy, mô hình thị trường chứng khoán Mỹ đã được nhiều nước học tập, áp dụng và sửa đổi cho phù hợp với thực trạng, điều kiện kinh tế của từng nước. Thị trường chứng khoán Mỹ xuất hiện từ năm 1792 và đến năm 1800 đánh dấu sự ra đời Sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên, tiếp theo đó là hàng loạt các Sở Giao dịch chứng khoán được hình thành trên khắp nước Mỹ.
Sở Giao dịch chứng khoán New York (NYSE) là sở giao dịch lớn nhất và lâu đời nhất nước Mỹ. Năm 2000, tổng số có 262,5 tỷ cổ phần được giao dịch trên NYSE, số cổ phần giao dịch bình quân ngày đạt 1.041,6 triệu, đây là lần đầu tiên có số cổ phần giao dịch bình quân ngày vượt con số 1 triệu cổ phần. Giá trị giao dịch bình quân ngày cũng đạt 43,9 tỷ USD, tổng giá trị giao dịch trong năm 2000 của NYSE đạt 11,1 nghìn tỷ USD. năm 2000 cũng là nam hoàn thiện hơn nữa hệ thống giao dịch bằng sự thay đổi của cách yết giá (yết giá dạng thập phân thay vì dạng phân số trước kia). Cuối năm 2000 có 2.862 cổ phiếu dược niêm yết trên NYSE với tổng giá trị là 17,1 nghìn tỷ USD.
Khác với NYSE, Sở giao dịch chứng khoán NASDAQ nổi tiếng về bề dày lịch sử cũng như phương thức giao dịch truyền thống, NASDAQ, một sở xuất hiện hệ thống giao dịch chứng khoán điện tử đầu tiên trên thế giới, NASDAQ đã đi tiên phong trong lĩnh vực đổi mới, sử dụng thiết bị công nghệ để cho hàng triệu nhà đầu tư được
tiếp cận với các công ty hàng đầu trên thế giới. các giao dịch chửng khoán trên
NASDAQ được thực hiện thông qua hệ thống mạng máy tính và điện thoại theo mô hình của thị trường toàn cầu. Hiện nay trên NASDAQ có tới trên 5000 công ty niêm yết.
Thị trường chứng khoán Nhật Bản
Thị trường chứng khoán thật Bản thu hút khoảng trên dưới 20% tài sản cá nhân của người Nhật, trong đó một nửa đầu tư vào cổ phiếu, còn một nửa đầu tư vào các chứng khoán khác (trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, đầu tư tín thác...). Do vậy, có thể thấy rằng thị trường chứng khoán Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn dài hạn cho Chính phủ và các công ty.
Hiện nay cũng như trong nhiều năm qua, Sở Giao dịch Chửng khoán Tokyo (TSE) là Sở giao dịch lớn thứ hai trên thế giới về doanh số bán, chỉ sau NYSE.
Trên TSE, việc giao dịch, mua bán chứng khoán được quy định dựa trên các nguyên tắc cơ bản quan trọng nhất là:
Nguyên tắc công khai: công khai về hoạt động của người phát hành; các loại chứng khoán được chào bán, đặt mua; giá cả, số lượng chứng khoán được mua bán...
Nguyên tắc trung gian mua bán: mọi hoạt động mua bán chứng khoán đều phải qua môi giới là các công ty chứng khoán được quyền hoạt động trên TSE (TSE có 125 công ty chứng khoán, trong đó có 25 công ty nước ngoài) để đảm bảo sự tin cậy của thị trường, tránh sự giả mạo, lừa đảo.
Nguyên tắc tập trung: có nghĩa là tập trung tất cả mọi đơn đặt hàng, đơn chào bán vào TSE để đảm bảo việc hình thành giá cả trung thực, hợp lý.
Nguyên tắc đấu giá: bao gồm quyền ưu tiên giá (ưu tiên giá chào bán thấp nhất và giá đặt mua cao nhất) và quyền ưu tiên về thời gian.
Sau khi đưa hệ thống giao dịch bằng máy tính chính thức đi vào hoạt động (ngày 18-3-1991), hiện nay, các cổ phiếu trên TSE vẫn được giao dịch theo hai phương thức khác nhau: giao dịch tại sàn và thông qua hệ thống máy tính.
Trên TSE, hầu hết các giao địch mua bán chứng khoán được thanh toán vào ngày làm việc thứ ba sau ngày giao dịch (T+3). Vào ngày T+1, nếu phát hiện thấy sai sót nào trong quá trình giao dịch, các công ty chứng khoán thành viên phải báo ngay cho TSE để điều Chỉnh. Vào ngày T+2, Trung tâm lưu ký và thanh toán bù trừ (JASDEC) kết hợp với TSE thực hiện thanh toán bù trừ các giao dịch mua bán chứng khoán giữa các công ty thành viên. Vào ngày T+3, Trung tâm thực hiện các bút toán ghi sổ kế toán và thực hiện thanh toán chứng khoán và tiền cho các giao dịch.
Thị trường chứng khoán Hàn Quốc
Ít nhất từ những năm 1950, thị trường chứng khoán Hàn quốc đã trở thành một trong 10 thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới. Thị trường này đã phát triển một cách nhanh chóng. Chỉ trong giai đoạn năm 1990 - 1999, khối lượng giao dịch cổ phiếu đã tăng từ 53 triệu tỷ won lên 867 triệu tỷ won, khối lượng giao dịch trái phiếu tăng từ 39 triệu tỷ lên đến 2.183 triệu tỷ won, trong khi đó giá trị niêm yết trên thị trường cũng tăng từ 79 triệu tỷ won lên 350 triệu tỷ won.
Sở Giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (KSE) là một sàn giao dịch có tổ chức ở Hàn Quốc, có 3 khu vực giao dịch: các khu vực cho cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phái sinh. Khu vực cho cổ phiếu được chia ra thành khu vực thử nhất và khu vực thứ hai. Khu vực thứ nhất dành cho các công ty có quy mô lớn và tài chính mạnh, với hơn
80% tổng số cổ phiếu trên thị trường. Khu vực thứ hai là địa điểm cho các cổ phiếu mới được niêm yết, hoặc cho các công ty có tài chính yếu được giao dịch. KSE đôi khi phải được sự chấp thuận của SEC trong trường hợp muốn niêm yết cổ phiếu của công ty có đủ tiêu chuẩn niêm yết trên KSE, nhưng chưa từng chào bán cổ phiếu của mình ra công chúng trước đó. Ví dụ, khi một công ty đăng ký trên thị trường OTC muốn niêm yết các cổ phiếu của mình trực tiếp trên KSE, KSE cần phải được sự chấp thuận của SEC trước khi cho phép công ty đó niêm yết. Tuy vậy việc niêm yết trực tiếp này là rất hiếm.
Đến tháng 3-2001, tổng số công ty chứng khoán hoạt động tại đàn Quốc là 64 công ty, trong đó có 43 công ty trong nước và 21 công ty nước ngoài.
Thị trường chứng khoán Thái Lan
Thị trường chứng khoán Thái Lan là một trong những thị trường chứng khoán phát triển nhanh nhất ở khu vực châu Á. Thị trường chứng khoán ban đầu được các công ty tư nhân thành lập (vào tháng 7-1962), mãi cho đến năm 1992 Uỷ ban chứng khoán, cơ quan quản lý trực tiếp thị trường chứng khoán Thái Lan mới được thành lập. Tại Thái Lan, các công ty chứng khoán muốn trở thành thành viên của Sở Giao dịch chứng khoán thì phải được Bộ Tài chính đồng ý. Theo luật về sở giao dịch chứng khoán, các thành viên phải có khả năng tài chính mạnh, có khả năng thực hiện các giao dịch chứng khoán và có kinh nghiệm trong các hoạt động giao dịch đó.
Thị trường chứng khoán Thái Lan cũng là nơi điển hình của việc sử dụng hệ thống vi tính hoàn toàn tự động. Với hệ thống giao dịch tự động này, Sở Giao dịch chứng khoán Thái Lan cho phép các công ty chửng khoán thông qua hệ thống vi tính thực hiện các giao dịch ngay tại văn phòng của hộ mà không cần trực tiếp đến sở.
3. Bản chất và chức năng của thị trường chứng khoán
3.1. Bản chất của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua
bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi các chủ chửng khoán. Nhưng xét về mặt bản chất thì:
thể
nắm giữ
Thị trường chứng khoán là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm. Tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Chuyển từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Thị trường chứng khoán là định chế tài chính trực tiếp: cả chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. Ngược với cách tài trợ gián tiếp được thực hiện thông qua các trung gian tài chính, những người có vốn có khi có đủ điều kiện về môi trường tài chính, pháp lý... sẽ trực tiếp đầu tư vào sản xuất, kinh doanh không cần qua các trung gian tài chính mà chuyển vốn thông qua thị trường chứng khoán, một thị trường dẫn vốn trực tiếp từ người có vốn sang người cần vốn theo nguyên tắc đầu tư.
Với việc đầu tư qua các trung gian tài chính, các chủ thể đầu tư không thể theo dõi, kiểm tra, quản lý vốn đầu tư của họ, do đó làm cho quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau, làm giảm động lực tiềm năng trong quản lý. Trái lại, với việc đầu tư qua thị trường chứng khoán, kênh dẫn vốn trực tiếp, các chủ thể đầu tư đã thực sự gắn quyền sử dụng và quyền sở hữu về vốn, nâng cao tiềm năng quản lý vốn. Thị trường chứng khoán thực chất là quá trình vận động của tư bản tiền tệ.
Các chứng khoán mua bán trên thị trường chứng khoán có thể đem lại thu nhập cho
người nắm giữ
nó sau một thời gian nhất định và được lưu thông trên thị
trường
chứng khoán theo giá cả thị trường, do đó bề ngoài nó được coi như là một tư bản hàng hoá.
Có thể nói, thị trường chứng khoán là nơi mua bán các quyền sở hữu về tư bản, là hình thức phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá.
Thị trường chứng khoán cũng gắn với loại hình tài chính ngắn hạn. Những người có chứng khoán có thể mua bán chứng khoán tại bất kỳ thời điểm nào trên thị trường chửng khoán, nên các chứng khoán trung và dài hạn cũng trở thành đối tượng đầu tư ngắn hạn.
3.2. Chức năng của thị trường chứng khoán
a. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Bằng cách hỗ trợ các hoạt động đầu tư của công ty, thị trường chứng khoán đã có những tác động quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua thị trường chứng khoán, chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
b. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Thị trường chứng khoán cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. Chính vì vậy, thị trường chứng khoán góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
c Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi thành tiền mặt) là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán dối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
d. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp