Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá - 2


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong lịch sử phát triển văn hoá, văn học của nhân loại, có những tác phẩm văn học kiệt xuất, phản ánh, kết tinh văn hoá tinh thần của một quốc gia, phô bày những nét đẹp kiều diễm của ngôn ngữ mẹ đẻ - một biểu tượng văn hoá tài hoa của một dân tộc. Những tác phẩm ấy không chỉ là những nỗi đam mê, niềm kiêu hãnh tự hào của dân tộc đó mà còn là chiếc cầu nối văn hoá – tâm linh mang lại bao nhiêu tình yêu, sự kính trọng và những trải nghiệm của những dân tộc khác. Vì vậy, có thể

nói, Nguyễn Du 阮 攸 đã cống hiến cho dân tộc chúng ta một tuyệt phẩm, đúng như

Đặng Thai Mai đã từng nhận định: “Trong toàn bộ văn học Việt Nam ngày xưa, Truyện Kiều là một thành công vẻ vang nhất, là áng văn chương tiêu biểu hơn hết...” [05, tr.165].

Từ khi ra đời đến nay Truyện Kiều 傳翹 (nguyên danh Đoạn trường tân

thanh 斷腸新聲) đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của đời sống tâm hồn, tâm linh của dân tộc Việt Nam nói chung và đời sống văn học nói riêng. Nhờ có Truyện Kiều, vẻ đẹp của tiếng Việt càng được tôn xưng, tài năng của các thi nhân người Việt càng được khẳng định, đề cao. Tuy đã có không ít công trình nghiên cứu công phu về tác phẩm nhưng cho đến nay vẫn còn có khá nhiều vấn đề cần được làm sáng tỏ. Những vấn đề liên quan đến văn bản, nội dung và thế giới nghệ thuật của nó vẫn để lại những tồn nghi, cần tiếp tục kiểm chứng, bổ sung và khảo cứu thêm. Tuy vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất khẳng định những thành tựu về ngôn ngữ của Nguyễn Du trong tuyệt phẩm này cũng như những đóng góp thiết thực của ông đối với lịch sử phát triển ngôn ngữ văn chương cổ điển Việt Nam.

Nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ trong tác phẩm văn học trung đại Việt Nam nói chung và ngôn ngữ nghệ thuậtTruyện Kiều nói riêng từ góc độ văn hoá là một hướng tiếp cận có tính chất liên ngành. Thông qua hệ thống ngữ liệu văn hóa, một số nhà nghiên cứu đã đi sâu, tìm hiểu nội dung, tư tưởng thẩm mỹ và phong cách văn hoá của Nguyễn Du trong hành trình sáng tạo, những đóng góp cụ thể của ông


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.

cho văn học nước nhà. Từ định hướng này, thông qua ngôn ngữ chúng ta có thể khảo sát, từng bước chiếm lĩnh thế giới nghệ thuật, khám phá bức tranh về đời sống xã hội và những cách tân của tác giả trong quá trình chiếm lĩnh hiện thực, những trải nghiệm của một nhà nghệ sĩ trước những cuộc dâu bể, biến thiên của cuộc sống.

Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các thế hệ học giả đi trước, chúng tôi tiến hành khảo sát hệ thống ngữ liệu cổ văn trong Truyện Kiều và đối chiếu chúng với các tài liệu khảo chứng, hệ thống văn bản thư tịch Hán Nôm có liên quan. Từ đó, chúng tôi tìm hiểu một số vấn đề có tính lý thuyết về hệ thống điển cố, thi liệu, các lớp từ ngữ, những vấn đề thi pháp ngôn ngữ mang tính cao nhã, từ chương, uyển ngữ trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, đặc biệt là ý nghĩa hàm ẩn, các tầng nghĩa văn hoá của chúng trong từng ngữ cảnh cụ thể. Đây cũng là một trong những việc làm cần thiết góp phần nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm văn học cổ điển trong nhà trường và bảo tồn vốn di sản Hán Nôm của ông cha ta. Từ những ý nghĩa cấp thiết trên, chúng tôi đi vào tìm hiểu đề tài Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoánhư một sự thể nghiệm, biện giải ngôn ngữ văn chương cổ điển và văn hoá thông qua các mối quan hệ biện chứng giữa chúng.

Ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá - 2

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Sự ra đời của Truyện Kiều là một mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của ngôn ngữ văn học, văn hoá dân tộc. Tài năng và những đóng góp của Nguyễn Du không chỉ được thể hiện qua việc tái tạo một tác phẩm tiểu thuyết diễm tình Hán văn trong văn học cổ điển Trung Quốc mà còn được khẳng nhận từ nhiều góc độ khác nhau, nhất là từ phương diện ngôn ngữ và văn hoá.

Với số lượng 3.254 câu thơ lục bát trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã huy động một vốn từ phong phú, đa dạng và liên kết chúng thành một hệ thống ngữ liệu đặc sắc tạo nên những thần cú diễm từ trong văn học cổ điển Việt Nam. Do đó, nó đã trở thành một đối tượng nghiên cứu, so sánh của nhiều chuyên ngành khác nhau như: Văn bản học, Thi pháp học cổ điển, Ngôn ngữ học văn hoá... gắn liền với những tên tuổi các học giả nổi tiếng như Phạm Quỳnh, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Sỹ Tế, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Khắc Viện, Bửu Cầm, Lê Ngọc Trụ, Bùi


Khánh Diễn, Tản Đà, Bùi Giáng, Bằng Giang, Thẩm Thệ Hà, Trần Phương Hồ, Nguyễn Tử Quang, Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Văn Hoàn, Lê Trí Viễn, Đào Thản, Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Thạch Giang... và gần đây nhất là những công trình quy mô của Trần Đình Sử, Trần Nho Thìn, Nguyễn Hữu Sơn, Đào Thái Tôn, Phạm Đan Quế, Lê Thu Yến, Lê Xuân Lít, Vũ Thanh Huân... Tựu trung, qua những tư liệu hiện có, theo chúng tôi, lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều có thể khái quát thành các hướng như sau:

2.1. Nghiên cứu về ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều

Từ góc nhìn lịch sử phái sinh, tuỳ theo từng mục đích của các chuyên luận, tiểu luận nghiên cứu, vấn đề ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều được xem xét từ nhiều góc độ với nhiều khái niệm khác nhau. Qua nghiên cứu, chúng tôi tạm nêu một số nét khái quát như sau: Ngôn ngữ nhân dân và ngôn ngữ quý tộc (Lê Trí Viễn, Đào Thản, Lê Đình Kỵ, Đặng Thanh Lê); Ngôn ngữ hiện thực và ngôn ngữ ước lệ (Nguyễn Lộc, Lê Đình Kỵ); Ngôn ngữ (dòng, sắc thái) bình dân và bác học (Mai Quốc Liên, Lê Đình Kỵ); Ngôn ngữ văn học dân gian và ngôn ngữ văn học chữ Hán (ngôn ngữ văn chương bác học) (Đào Duy Anh, Lê Trí Viễn, Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Đào Thản, Nguyễn Thuý Hồng); Ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ Hán Việt (Đào Thản, Đặng Thanh Lê, Nguyễn Lộc, Hoàng Hữu Yên, Nguyễn Thuý Hồng, Lê Thu Yến, Vương Trọng...).

Trong Lịch sử văn học Việt Nam (tập 3, in năm 1962, tái bản 1976) của nhóm tác giả Đại học Sư phạm, khi bàn về một vài phương diện của nghệ thuật Nguyễn Du, Lê Trí Viễn đã cho rằng:

Nguyễn Du sử dụng rất tài tình vốn ngôn ngữ nhân dân. Ông cũng đã học tập cách sử dụng của người đi trước hay đồng thời... Nguyễn Du còn dùng ca dao và tục ngữ, cách dùng cũng có những hình thức biến hoá tài tình, thích hợp. Hồ Xuân Hương đã có lối trích dùng ca dao và tục ngữ thành điển cố ngang hàng với những điển cố trong văn học Trung Quốc. Điều đó không những nâng cao giá trị của vốn dân tộc mà tác dụng thực tế là đem lại cho thơ văn một ý vị đậm đà, một dáng dấp thanh thoát mà khi


dùng điển cố ngoại lai không thể có được. Nguyễn Du đã thực sự đi theo con đường đó và đã rất thành công. [168, tr.179 - 180].

Bên cạnh đó, Lê Trí Viễn còn nhấn mạnh đến vấn đề ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều, ông khẳng định: “Tác giả Truyện Kiều cũng tiếp tục truyền thống vay mượn văn học Trung Quốc đã có từ lâu. Hoặc lấy ngay những thành ngữ chữ Hán, hoặc thu gọn những điển cố trong văn học Trung Quốc thành những thành ngữ bằng tiếng Việt Nam, hoặc chuyển hình ảnh trong thơ Trung Quốc sang thơ Việt Nam.” [168, tr.180].

Những nhận định trên đã được Lê Trí Viễn tiếp tục tái khẳng định trong giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Trường ĐHSP TP. HCM, 1996) [169]. Quả vậy, qua những nhận xét của nhà nghiên cứu, chúng ta có thể nhận thấy khả năng phổ cập hoá, dung dị hoá của lời thơ Truyện Kiều của Nguyễn Du đến với mọi tầng lớp nhân dân. Đó có lẽ cũng là niềm tự hào lớn của dân tộc mà không phải tác giả văn học nào cũng có thể đạt được.

Theo sự sưu tập của chúng tôi, xuất phát từ quan điểm xem ngôn ngữ là một bộ phận quan trọng cấu thành vẻ đẹp đặc biệt của tác phẩm, Nguyễn Lộc trên Tạp chí Văn học số 11 năm 1965 với bài viết Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều [89] và tiếp tục trong công trình Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ

XIX) (1978, tái bản 2006) [90] đã khảo sát nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du ở các phương diện như từ ngữ Hán Việt, điển cố, thi liệu, ngữ liệu tập văn, tập thi... Tác giả đi sâu phân tích nét đặc sắc và chỉ ra những sáng tạo của Nguyễn Du trong nghệ thuật sử dụng từ trong thi phẩm của mình. Ông cho rằng:

Cũng như Hồ Xuân Hương, với Nguyễn Du thơ ca không tự bó mình trong khuôn khổ nào của ngôn từ. Không có sự phân biệt của ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời sống. Đối với ông, bất cứ một từ ngữ nào cũng trở thành từ ngữ của thơ, miễn là phải dùng nó một cách có nghệ thuật... [90, tr. 778].

Tiếp tục những kết quả nghiên cứu của Nguyễn Lộc, nhà Ngữ học Đào Thản với tiểu luận Đi tìm một vài đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều (1966) [135] đã khái quát những vấn đề cơ bản về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du, nhất là


phần điển cố và các ngữ liệu cổ văn khác. Trong những công trình này này, các tác giả đã nhận định cụ thể như sau: “Cái đặc sắc ở Nguyễn Du là ở chỗ mài dũa đến điêu luyện mà không làm mất vẻ tự nhiên, chọn lọc tinh vi mà không cầu kỳ vẫn giữ được phần trong trẻo của ngôn ngữ dân tộc” [135, tr.68]. Trong Đặc điểm ngôn ngữ Truyện Kiều (1988), Đào Thản tiếp tục khẳng định:

Ngôn ngữ Truyện Kiều nói chung không có vay mượn xa lạ và cầu kì như Cung oán ngâm khúc, không có cái đài các quá ư lộng lẫy nhưng bề bộn rườm rà của Hoa tiên hay đẽo gọt vụng về của Sơ kính tân trang. Quả thật ngôn ngữ Truyện Kiều gần với thôn ca hơn cả. [136, tr.169].

Truyện Kiều là tác phẩm nổi tiếng trong và ngoài nước, đã có nhiều công trình nghiên cứu tiếp cận nó từ nhiều góc độ khác nhau nhằm tìm hiểu phong cách đặc thù của Nguyễn Du và giai phẩm nổi tiếng của ông. Từ góc độ phong cách, tu từ học, một số nhà nghiên cứu như Nguyễn Sỹ Tế trong Luận đề về Nguyễn Du và Đoạn Trường Tân Thanh (1959) [154], Phạm Văn Diêu với Việt Nam văn học giảng bình (1970) [23], Nguyễn Quảng Tuân trong Tìm hiểu Nguyễn Du và Truyện Kiều (1992, tái bản có bổ sung 2000) [159], Chữ nghĩa Truyện Kiều (1990, 2004) [158], Đặng Thanh Lê trong Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm (1979) [80] và trong mục Truyện Kiều (Giáo trình Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, 1999) [81], Giảng văn Truyện Kiều (1999, 2006) [82] và Thích Nhất Hạnh với Thả một bè lau - Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán (2000) [140]... cũng đã có những dòng đánh giá, giảng giải và bình phẩm về hệ thống từ ngữ trong các đoạn trích tiêu biểu của Truyện Kiều khá hấp dẫn. Khi khẳng định Truyện Kiều là một thành tựu rực rỡ và kết tinh những giá trị văn hoá đặc biệt của ngôn ngữ dân tộc Việt Nam, Đặng Thanh Lê đã cho rằng:

Vận dụng triệt để ngôn ngữ dân tộc - đưa hệ thống từ vựng xã hội, đưa khẩu ngữ vào mảnh đất thơ ca, kế thừa ngôn ngữ văn học dân gian và tiếp thu tinh hoa ngôn ngữ văn học nước ngoài... đồng thời Nguyễn Du tái tạo tất cả những chất liệu đó theo yêu cầu xây dựng hình tượng và chủ đề tác phẩm. Sử dụng vốn liếng ngôn ngữ của đời sống quá khứ, của ngoại lại đồng


thời in vào đó dấu vết của phong cách cá nhân, của cá tính sáng tạo, những câu thơ Kiều phản phất phong vị ca dao, phong vị thơ Đường luật, phong cách thành ngữ, tục ngữ và cả màu sắc khúc ngâm trữ tình... nhưng đồng thời đó vẫn là những câu thơ riêng biệt của Truyện Kiều. [81, tr.206].

Đặc biệt, trong công trình Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du qua Truyện Kiều (1985, tái bản có bổ sung 2003) [100], Phan Ngọc đã đưa ra những nhận định về phong cách, cũng như nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du và tác phẩm của ông rất khoa học và thú vị. Nhà nghiên cứu đã cho rằng:

Nghiên cứu Truyện Kiều trong phong cách thể hiện truyện Nôm ta thấy tác giả thừa hưởng những cái hay của thể loại nhưng còn phải chịu một vài nhược điểm của nó. Cái hay là ở tâm trạng, ở ngôn ngữ, ở sự xây dựng một phong cách diễn đạt gần như toàn dân. Nhưng nhược điểm vẫn còn: phần thể hiện hoàn cảnh khách quan không mãnh liệt mà chiều theo khuôn sáo, đưa yếu tố thần linh vào không tự nhiên, những khuyết điểm chung của hầu hết các truyện Nôm. [100, tr.323].

Tiếp sau Phan Ngọc, Trần Đình Sử trong Thi pháp Truyện Kiều (2002) [132] đã khảo sát và tìm hiểu thế giới nghệ thuật, tư duy nghệ thuật của Nguyễn Du và tác phẩm của ông một cách khá công phu. Tác giả đã đi vào nghiên cứu tác phẩm theo một hệ thống và biện giải nó ở nhiều phương diện. Ông đã tôn vinh Nguyễn Du là “nhà nghệ sĩ ngôn từ”, là “nhà nghệ sĩ bậc nhất về ngôn từ trong văn học trung đại Việt Nam” [132, tr.305]. Đặc biệt, Trần Đình Sử đã nhấn mạnh:

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du với tư cách nghệ sĩ, ông cũng “đập vỡ” cấu trúc ngôn ngữ hàng ngày để tạo thành ngôn từ nghệ thuật. Ông đã tránh ngôn từ tác giả thực dụng để sử dụng ngôn từ đã chủ thể. Ông đã trao quyền tự sự cho người kể chuyện và cho nhân vật, làm cho ngôn từ ấy có thể “nói” nhiều hơn là lời của ông Tham tri bộ Lễ, ông Cai bạ Quảng Bình và ông sứ thần triều Nguyễn. [132, tr.308].

Qua những công trình của Lê Trí Viễn, Nguyễn Sỹ Tế, Nguyễn Lộc, Đặng Thanh Lê, Phan Ngọc, Nguyễn Quảng Tuân, Trần Đình Sử... người đọc cảm thấy


thích thú với những nhận xét sắc sảo, tinh tế, thực sự thoả đáng và qua đó có thể có được một cái nhìn khái quát hơn về phong cách ngôn ngữ, thế giới thẩm mỹ và quan điểm sáng tác của Nguyễn Du - nhà thơ vĩ đại của dân tộc.

Như đã trình bày, kể từ ngày ra đời cho tới nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã được giới nghiên cứu Ngữ văn học tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau. Trong hàng trăm nghiên cứu, một số được tập trung vào tư tưởng và triết lý từ câu chuyện hay từ tác giả qua câu chuyện; một số xoay quanh các giá trị đạo lý có thể suy ra từ tác phẩm; và một số đặt trọng tâm về ngôn ngữ dùng trong truyện. Đối với vấn đề ngôn ngữ Truyện Kiều, chúng tôi nhận thấy, khái quát về giá trị ngôn ngữ của tác phẩm này đã có những đánh giá cụ thể bằng nhãn quan thẩm mỹ mang tính định lượng, bằng những số liệu thống kê khá cụ thể và chi tiết. Theo phương pháp này, Từ điển Truyện Kiều (1974) [03] của Đào Duy Anh, Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều (2001) [91] của Lê Xuân Lít, Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1995) [161] của Đỗ Minh Tuấn, luận án Từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều (1995) [65] của Nguyễn Thuý Hồng đã có những con số chính xác về tần số, tần suất xuất hiện của các ngữ liệu Hán Việt và thuần Việt trong tác phẩm. Cách làm này nhằm đưa đến cho người đọc một cái nhìn khoa học, thực chứng về hệ thống từ vựng trong ngôn ngữ Truyện Kiều. Thông qua hệ thống này, người tiếp nhận đã có những cơ sở, số liệu cụ thể để có thể tìm hiểu, biện giải và cắt nghĩa ý đồ nghệ thuật, thế giới trữ tình và hình tượng nhân vật mà Nguyễn Du muốn gửi gắm trong tác phẩm của mình một cách khoa học và hợp lý.

2.2. Nghiên cứu về ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc nhìn văn hoá

So với nhiều truyện Nôm cùng thể tài khác, ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều dường như là một thế giới đầy hương sắc, là phức thể đa dạng và phong phú. Do đó, càng đào sâu tìm hiểu, chúng ta càng phát hiện thêm nhiều điều mới lạ. Tuy nhiên, trong nhiều đặc điểm trội bật ấy, sợi chỉ đỏ xuyên suốt qua toàn bộ ngôn ngữ Truyện Kiều và làm nên giá trị vĩ đại của tác phẩm ấy, phải chăng là sự kết hợp tuyệt diệu giữa hai khuynh hướng bình dân và bác học trong ngôn ngữ tác phẩm. Đây có thể xem là những bước khám phá đầu tiên về ngôn ngữ Truyện Kiều từ góc


nhìn văn hoá, cụ thể ở đây là văn hoá bình dân và bác học. Mai Quốc Liên trong

Dòng bác học và dòng bình dân trong ngôn ngữ Truyện Kiều (1966) đã cho rằng:

Nguyễn Du là một nhà thơ vô song đã đóng góp rất nhiều vào ngôn ngữ văn học dân tộc. Công lao của ông trong việc kế thừa một cách sáng tạo ngôn ngữ dân gian và trong việc sử dụng tài tình ngôn ngữ văn học Trung Quốc. Thành tựu tuyệt vời của ông trong việc làm phong phú, làm trong sáng ngôn ngữ văn học thế kỷ XIX đã có ảnh hưởng sâu xa và lâu dài đến sự phát triển ngôn ngữ văn học dân tộc ta. [83, tr.57].

Sau học giả Mai Quốc Liên, nhà lý luận phê bình văn học Lê Đình Kỵ cũng khảo sát Sắc thái bác học, sắc thái bình dân và tính thống nhất của ngôn ngữ Truyện Kiều (1986), ông cũng thống nhất quan điểm:

Tính dân tộc của ngôn ngữ có gốc rễ chủ yếu ở thành phần bình dân... những yếu tố bác học như điển cố, tượng trưng, ước lệ đã được Nguyễn Du nhào nặn tái tạo và đưa vào một âm hưởng mới, chứa chan tình điệu dân tộc...” và “làm thế nào kết hợp giữa hai thành phần đó trong cùng một tác phẩm mà không có sự phân ly, chắp nối. Hoàn cảnh mỹ học cụ thể lúc bấy giờ cho phép sự thống nhất hai thành phần ấy trong một sự kết hợp biện chứng, hữu cơ. [76, tr 425].

Hướng tiếp cận trên tuy đã chỉ ra được hai nguồn gốc cơ bản cấu thành hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật của Truyện Kiều nhưng vẫn chưa đi sâu phân tích, đưa ra những dẫn liệu cụ thể và nêu bật rò ràng những nét nghĩa văn hoá ẩn hàm trong ngôn ngữ Truyện Kiều, nhất là nguồn gốc, xuất xứ cụ thể của hệ thống ngữ liệu văn hoá trong tác phẩm tiêu biểu này.

Năm 1995, Nguyễn Thị Ly Kha đã công bố bài viết Bước đầu tìm hiểu về hiện tượng giao thoa từ ngữ tiếng Hán sang từ ngữ tiếng Việt (qua cứ liệu Đoạn trường tân thanh) và phần phụ lục Đôi điều về Truyện Kiều và cổ thi trong Kỷ yếu Hội nghị Khoa học, Trường Đại học Tổng hợp TP. HCM. Từ góc độ lý thuyết tiếp xúc ngôn ngữ, tác giả đã trình bày khá nhiều vấn đề về sự giao thoa của hai hệ thống ngôn ngữ, tuy nhiên, bài viết cũng chỉ dừng lại ở mức độ nêu vấn đề, chưa

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/07/2022